www.donghuongtienphuoc.com - Đồng hương Tiên Phước - Quê hương là của chúng tôi nhưng cảm nhận là của bạn

Không gian văn hóa làng cổ Lộc Yên xã Tiên Cảnh

Đã có nhiều bài báo viết về ngôi làng cổ Lộc Yên (xã Tiên Cảnh, Tiên Phước, Quảng Nam) nhưng chủ yếu giới thiệu về ngôi nhà cổ đẹp nhất nằm trên gò đồi mà ông Ngô Đình Diệm đã từng mua hai lần mà không được, do chủ nhân không muốn bán... Để hiểu thêm giá trị độc đáo của làng xưa vùng trung du xứ Quảng này, bài viết của họa sỹ Nguyễn Thượng Hỷ dưới đây đóng góp vài suy nghĩ về việc hình thành không gian của người xưa khi chọn nơi đây để thành lập làng.

         Phải nói thêm, không gian kiến trúc làng Lộc Yên là một không gian văn hóa nhà cổ trung du tiêu biểu của tỉnh Quảng Nam. Làng thì phải có nhà. Nhà cổ có giá trị đặc trưng riêng, tuy nhiên thường luôn được người xưa xây dựng trong một không gian tương ứng với giá trị của nó. Và vì vậy, việc bảo tồn nhà cổ phải bắt đầu từ việc khôi phục không chỉ kiến trúc mà phải chú trọng đến không gian xung quanh nó.

Nói đến văn minh "ở" là nói đến "nếp ở", như vậy việc chọn vị trí dựng nhà đến loại nhà và kiểu thức nhà phải phù hợp với cảnh quan, địa lý vùng mà mình sinh sống. Dẫu các cư dân Việt từ miền Bắc vào Quảng Nam đến Tiên Phước muộn hơn các huyện ở đồng bằng như Tam Kỳ, Thăng Bình, Điện Bàn... Nhưng chính lẽ đó, bằng những trải nghiệm của người đi trước cộng với tri thức của người địa phương được gọi là "Tri thức bản địa" mà khi dựng nhà làm nơi trú ẩn người ta phải dựa vào phong thủy (đồi núi, khe nước), khai thác nguyên vật liệu xây dựng tại chỗ mà chủ yếu là thảo mộc (mây tre, gỗ) cùng với đất đá để làm nên các kiểu thức, kết cấu bền vững phù hợp khí hậu của vùng trung du: mưa nhiều, nắng nóng và độ ẩm cao... Có thể nói không gian kiến trúc làng Lộc Yên, Tiên Phước là một không gian văn hóa nhà cổ trung du tiêu biểu của tỉnh Quảng Nam. 

  Tiên Phước là vùng bán sơn địa, chỗ cao là gò, đồi, vùng trũng thấp là thung lũng với suối khe, ruộng đồng. Làng này cách biệt làng kia thường là những dãy đồi bao quanh, tạo nên những thung lũng nhỏ. Làng Lộc Yên mặc dù trải qua sự biến thiên thay đổi của thiên nhiên cũng như sự hủy diệt của chiến tranh đến nay vẫn còn giữ nguyên dáng vẻ, nét đẹp tự nhiên ban đầu, đó là nhờ vào sự gìn giữ trân trọng của bao thế hệ. Nhiều khách đến thăm Lộc Yên đều đồng ý rằng cảnh quan nơi đây có đủ yếu tố điển hỉnh cho vùng trung du huyện Tiên Phước. Tên gọi Tiên Cảnh dịch nôm na là cảnh Tiên đã chứng minh về cái lý mà người xưa đặt tên cho xã, trong đó có làng Lộc Yên.

     Chỉ một con đường dẫn vào làng, uốn lượn sát mép của ruộng lúa hai bên, con đường chính này có đoạn dường như là đường trung tâm ở giữa thung lũng chia cắt rõ nét hai phần đất làng với dãy gò đồi ở hai bên. Vào làng bên tay trái là Gò Tròn, tay phải là Gò Ngang, các khe nước đám ruộng thấp là Vũng Trâu.

          Từ những cuộc khảo sát gần đây, tiếp xúc với nhiều bậc cao niên trong làng như Cụ Nguyễn Huỳnh Anh (Đã mất vào tháng 6 năm 2007 thọ 93 tuổi) đã cho biết khi những cư dân ở đồng bằng lên đây khai canh, lập làng, trong đó có Cụ cố Nguyễn Đình Hoằng đã chọn phần đồi bên trái (Gò Tròn) để xây dựng nhà ở, những cư dân đến sau tiếp tục dựng nhà ở đồi bên phải (Gò Ngang).

          Để dễ dàng tiếp cận không gian mang chiều sâu của vùng sinh thái bán sơn địa,  thấm đậm tính thơ mà làng Lộc Yên xưa, nay là Thôn 4  vẫn còn giữ được, tôi tạm chia vùng sinh thái này thành ba không gian theo thứ tự tiếp cận từ ngoài vào trong.

           Không gian sản xuất:

          Vùng này nằm ở giữa thung lũng, ở đây không gian hẹp bị chia cắt bởi khe nước, bờ chắn bên cạnh những ruộng lúa, cây màu bậc thang cao dần và chấm dứt ở chân đồi. Vào mùa hè khô hạn, nhưng nguồn nước từ các khe đá, nguồn mạch từ đồi đá ở hai bên, trên cao thẩm thấu xuống đủ để cho nông dân có thể tiếp tục canh tác. Về mùa mưa lũ, nước từ các khe suối chính cũng như trên gò cao chảy xuống dồn vào giữa thung lũng nên người làng thường trồng cây dự phòng để không bị lũ cuốn trôi, đất ở trên đồi không bị lỡ, chuồi chảy. Nhờ biện pháp, kỹ thuật ngăn bờ bậc thang, hướng dòng chảy theo kiểu tầng bậc, be bờ giữ bằng đá thiên nhiên khai thác tại chỗ  làm tăng thêm diện tích canh tác ở thung lũng hẹp này.

          Trong không gian sản xuất đặc trưng của vùng gò đồi - ruộng bậc thang - dòng nước  luôn  chuyển dịch, đã  mang đến  cho  người  khách lẫn chủ một cảm giác: sinh sôi, no đủ đến cả sự yên tĩnh thanh bình của vùng đồi. Vào mùa xuân Lộc Yên, không gian đồi, gò tràn ngập chồi non lộc biếc; vào muà hạ, mùa thu vườn rợp mát cau, lòn bon, thanh trà ... và khi chiều xuống những tia nắng chiếu xuyên đồi làm lấp lánh, óng mượt trên những tán cây làm vàng thêm màu lúa chín dưới ruộng sâu...Vào mùa nước chảy, động vật thủy sinh bơi lội bên dưới khe nước, dòng chảy liên tục từ cao xuống thấp tạo nên âm thanh róc rách muôn thuở làm không gian nơi đây thêm nét sinh động, thơ mộng. Có thể nói rằng sự sáng tạo, chăm chỉ của bao thế hệ thuần nông nơi đây đã làm nên một không gian sản xuất đầy ắp sự no đủ về vật chất và sự thư giãn, nghỉ ngơi về tinh thần.

           Không gian thiên nhiên

          Qua khỏi những bờ ruộng bậc thang hướng lên Gò Đồi, nơi đây là không gian sống gồm vườn đồi với cây lá, bờ đá, ngõ đá tạo nên một màu xanh mênh mang làm nổi bật mái ngói nâu đỏ của những ngôi nhà cổ, tăng thêm sức quyến rũ và sự ấm áp, nhất là vào mùa đông, sự mát lạnh vào mùa hạ. Cách thức khai thác đá và gia công tạo dựng vườn của làng Lộc Yên và các làng khác ở vùng trung du Tiên Phước không đơn giản như ở vùng đồng bằng, đó là cả một kỹ thuật xếp đá công phu và độc đáo. Việc lấy đá ở đây không phải chỉ có mục đích để ngăn bờ, làm ngõ, làm nhà. Công việc đầu tiên mà người dân khi đến đây sống được là cần có đất để sản xuất. Hầu như đồi gò xung quanh làng là đá nằm ủ, lẫn lộn trong đất. Trải qua bao công lao khó nhọc của người dân từ khi lập làng đến ngày hôm nay họ vẫn phải tiếp tục kiên trì giải phóng đất có lẫn đá để tăng thêm diện tích cây trồng đồng thời đá được đào lấy đi xếp thành bờ ngăn, bờ rào, giới hạn cho khu vườn thuộc sở hữu của gia đình mình, ngăn nước, giữ nước, tạo lối đi, tạo nên cổng ngõ xinh xắn. Kỹ thuật xếp đá tự nhiên không phải gia công phức tạp (cắt, chẻ, …) mà những viên đá được xếp thành bờ tường không quá cao (từ 1m đến 1,2m) theo kiểu đế lớn chóp nhỏ dần, viên lớn ở dưới, viên nhỏ ở trên gài đan xen không cần xi măng nhưng vẫn vững chãi. Cây cỏ, địa y mọc xen vào các khe đá, bề mặt làm cho bờ ngăn thêm vững chãi. Theo thời gian, những ngõ đá, thềm đá được bàn tay con người sắp đặt, tạo dựng được thảm thực vật phủ kín đã làm xanh hoá và mềm đi sự khô cứng, nóng bức của đá; tạo ra nét cổ kính trầm mặc của không gian văn hoá làng cổ. Giáo sư - kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính trong lần thăm làng gần đây đã ngỡ ngàng trước những ngõ đá xinh xắn, đã thốt lên “đây là nghệ thuật sắp đặt mang tính thẫm mỹ dân gian”. Sự biết dừng lại, khéo léo trong ứng xử với thiên nhiên, dựa theo vẽ đẹp vốn có của nó đã nâng cao tính nhân văn của người xưa biết sống hòa hợp với thiên nhiên.
          Cũng như việc bố trí mặt bằng khu vườn, việc xác lập vị trí dựng nhà ở trong khu đất mình sở hữu của cư dân ở vùng đồng bằng Xứ Quảng và vùng trung du Tiên Phước đều có nét tương đồng. Không gian sống vừa tuân thủ theo luật phong thủy vừa phòng tránh sự khắc nghiệt của vùng đồi núi, lấy yếu tố hòa hợp làm đầu, dẫn chứng như: Chuối trồng sau, cau trồng trước (chống cái nắng). Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng Nam (phong thuỷ). Đặc biệt, vị trí dựng làng ngày xưa được các bậc tiền hiền vận dụng đúng yếu tố phong thủy của bậc vua chúa như tả Thanh Long: đứng trong nhà nhìn ra tay trái là thanh long (rồng xanh) gồm núi đồi, hàng cây, trước có khe nước, hồ (nhân tạo), suối. Đồi núi bên trái lui cao hơn bên phải. Bên phải Bạch Hổ này cũng có thế đất cao, có đường lộ dẫn vào làng vào nhà. Mặt trước có Minh đường với dòng nước Thủy tụ ruộng đồng (vũng trâu), xa có tiền án hay chu tước (1) che chắn (Hòn ngang) và đắc địa hơn là phía sau, hướng bắc có Huyền vũ (Gò tròn) với đồi cây làm hậu tẫm, bao bọc. (xem bản vẽ phần mặt bằng tổng thể, nhà cổ cụ Nguyễn Thống, cụ Đồng Viết Mão)

          Một thực tế làm chúng tôi suy nghĩ là có những ngôi nhà nằm bên kia đồi hướng Nam (Hòn ngang) tuy được yếu tố tốt là nằm lưng chừng đồi (2) nhưng hướng nhà phải là hướng Bắc (gió bấc lạnh) không thuận lợi về hướng. Điều này có thể lý giải sau: Trong lịch sử lập làng,  vì cảnh quan môi trường (thế đất, biểu tượng về ý nghĩa phong thuỷ được đề cao như tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ), những người đến trước như dòng họ của cụ Nguyễn Huỳnh Anh đều dựa theo mô hình quy hoạch làng truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ áp dụng cho việc lập làng, lập vườn, dựng nhà tại làng Lộc Yên nói riêng và Tiên Phước nói chung. Mặt khác, do cũng chú trọng tới yếu tố sức khoẻ của cả cộng đồng và gia đình nên đã chọn vị trí đồi phía Bắc (tay trái từ đường chính vào làng) dễ dựng nhà với ý nghĩa "Tọa Bắc triều Nam" dựa lưng về Bắc, hướng mặt về Nam, hướng đón được gió Nam mát tránh gió phía Bắc lạnh; dựa vào đồi phía sau (Gò tròn) tránh được gió Bắc khắc nghiệt và nắng gay gắt từ phía Tây hợp với ý nghĩa mà dân gian đã có câu: Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng Nam. Những cư dân đến sau không còn được phần đất tốt để cư trú nên chọn phần đất bên kia đồi phía Nam (Hòn Ngang), nhà phải quay về hướng Bắc (vị trí không hợp với mưa gió, mặt chính nhà không thể quay lên trên đồi, vì vậy phải quay xuống trúng về hướng Bắc (Đông Bắc hoặc Tây Bắc). Cái hướng mà hầu như người Việt chúng ta thường tránh khi dựng nhà. Từ đó việc quy hoạch trong lập vườn, trồng cây, tạo lối đi đều phải dựa theo thế đất, nguồn nước. Những khu vườn ở trong thiên nhiên này như nhà cụ Nguyễn Thống, nhà cụ Nguyễn Đình Huỳnh, nhà cụ Nguyễn Ngọc Anh… thuộc những dòng họ đến sau không được may mắn chọn được thế đất "Đắc địa" nhưng qua bao thế hệ vẫn trụ vững, khắc phục được sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Quan sát thì các khu vườn của những hộ dân trên đều có ngõ đá, bờ đá dẫn vào nhà, hàng cây chè tàu được trồng song song bờ đá, các cây kiểng, hoa trang trí (mai, hồng) vẫn được chăm chút ở phía trước sân gạch. Các cây ăn quả, lấy gỗ, lấy dầu, những cây đặc sản của Tiên Phước như: Chuối, mít, lòn bon, thanh trà, quế, tiêu đều được trồng chen nhau tỏa khắp xung quanh nhà, và chủ nhà cũng có kinh nghiệm trồng các loại cây cao bóng mát ở phía trước để chống nóng, chống gió.

        Nhìn chung, dẫu chọn không gian sống là vườn đồi bên trái phía Bắc (Gò tròn) hay đồi bên phải (Gò ngang) thì làng vẫn được hưởng cái nguồn mạch phát triển sinh sôi. Những ngôi nhà có đồi núi phía sau cơ bản nhận được những yếu tố phong thuỷ tốt nhất(2).

Đặc biệt, cây cối vườn tược sau nhà luôn luôn xanh tốt nhờ nguồn nước thiên nhiên (nhà cụ Nguyễn Huỳnh Anh) từ đá núi chảy ra, vách núi đá không cao, không bị sụt lỡ cùng huyền vũ bảo vệ chính là yếu tố quan trọng nhất. Vấn đề hướng nhà được các cư dân đến sau dần dần khắc phục, hóa giải, giữ yếu tố thiên nhiên: cây cỏ, đất đá, sông suối làm không gian sống, đó là phương cách mà người làng Lộc Yên trải qua nhiều thế hệ đã đưa lên hàng đầu tạo nên mối quan hệ: con người thân thiện với môi trường thiên nhiên.

           Ngôi nhà của cư dân Lộc Yên

Ngôi nhà nếu được dựng trên đỉnh đồi thì rơi vào thế "cô phong độc vũ", phải hứng gió, sấm sét và các yếu tố khác như Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ đều không có; vì vậy khi dựng nhà người xưa đã dựng ngôi nhà ở vị trị lưng chừng đồi, với khu vườn đồi xanh kín ở trên, các loại cây, thảm thực vật bên dưới, tạo ra những ngõ đá, những lối nhỏ uốn lượn theo tầng bậc bằng đá dẫn vào nhà. Điểm cuối cùng của lối dẫn vào nhà không trùng tim(3) (tâm) của gian giữa, vào nhà luôn luôn qua một sân rộng, ngày trước là nền đất, sau đó chuyển sang lát gạch, ngày nay một số nhà láng xi măng.

          Cũng như các ngôi nhà ở đồng bằng, người Lộc Yên khi dựng nhà ở lưng chừng đồi cũng cố tạo ra một mặt bằng đủ để dựng hai kiến trúc nhà chính và nhà ngang, một nhà cầu để nối liên thông với hai nhà trên. Nhà bếp, chuồng bò, heo, gà,… bố trí cao thấp tuỳ theo độ dốc của đồi. Bố cục tổng thể chung của các công trình thường được sắp xếp như sau:

+ Nhà chính - nhà cầu - nhà ngang thẳng góc và luôn luôn nằm bên trái nhà chính (hướng đông).

          + Nhà bếp bố trí sau nhà ngang, các chuồng trâu, bò, gà,… bố trí tiếp sau nhà bếp hoặc nhà ngang.

          + Giếng nước lấy nguồn từ đồi đá bên trên hoặc đào bên phải hoặc bên trái trước mặt nhà. Ngày nay người ta dùng máy bơm, ống nhựa dẫn nước từ trên khe nguồn về.

          + Ao cá - bể cạn được bố trí trước mặt nhà.

          - Vật liệu xây dựng: Có thể khẳng định rằng lúc các cư dân đến lập làng dựng nhà sinh sống thì hầu như các kiến trúc đều sử dụng nguồn vật liệu xây dựng có ngay tại địa phương, đó là thảo mộc, riêng ở Lộc Yên có thể gọi thêm thổ mộc. Đầu tiên phải là khung sườn bằng tre, thân cũng bằng tre đang, trát bằng hỗn hợp đất và rơm rạ hoặc xây bằng đá vữa, bằng đất sét, phần mái lợp bằng tranh. Truyền thống làm nhà bằng gỗ mít (tên khoa học là Artocarpus heterophyllus thuộc họ dâu tằm Moraceac) từ đồng bằng du nhập lên, cũng phải đợi khi cây mít trồng trong vườn đủ to để có phần lõi tốt  cho việc làm nhà (30 năm trở lên), cũng có thể người làng mua gỗ từ nơi khác mang đến. Tuy nhiên, việc dựng nhà gỗ là nhà Rường thì rất tốn kém, và khi người trong làng giàu có, đủ ăn đủ mặc, dư dã mới dựng được nhà. Theo điều tra của chúng tôi thì cụ Nguyễn Đình Hoằng là cụ cố của cụ Nguyễn Huỳnh Anh người giàu có trong làng mới có thể dựng ba căn nhà Rường cho ba người con. Ngôi nhà xưa ở Lộc Yên trước năm 1940 hầu như đều làm nguồn vật liệu tre, gỗ, tranh. Những năm sau khi có đường ô tô từ Tam Kỳ đến Tiên Phước thì mái nhà được thay tranh lợp ngói âm dương (4)kéo theo vách đất bao che nhà cũng được thay bằng tường đá (khai thác tại chỗ) chúng được liên kết nhau bằng vữa đất, tô phủ bên ngoài bằng hỗn hợp đường mía với vôi.

Làng Lộc Yên ngày trước cho đến hôm nay vẫn ở trong một thung lũng bao quanh là những đồi cây chen với đá, cách đây 50 năm còn tồn tại những ngôi nhà xinh xắn làm từ tre: nhà Rội/ Rọi đến những ngôi Rường nhà bằng gỗ vườn, vách bằng đất liên kết với đá, tất cả đều lợp mái bằng tranh. Chính những ngôi nhà này đã phản ảnh tinh thần về kiến trúc sinh thái, kiến trúc thân thiện với thiên nhiên. Kiến trúc ấy dẫu là nhà ở dân gian nhỏ bé nhưng là bài học cho chúng ta hôm nay về sự hòa hợp của ngôi nhà ở với môi trường thiên nhiên. Ngoài ra ở huyện Tiên Phước, Quảng Nam còn có loại nhà lá mái (5): nhà có 2 tầng mái, mái trên lợp bằng tranh, mái dưới bằng đất (mà lâu nay người ta chỉ nghỉ rằng loại nhà này chỉ có ở Bình Định). Qua nhiều lần điền dã, điều tra chúng tôi khẳng định rằng, đây là loại nhà có kết cấu của nhà Rường nhưng trong điều kiện xa trung tâm sản xuất ngói nên hầu như những kiến trúc miếu, đình, nhà ở đều phải lợp tranh. Tranh thì dễ cháy nên người xưa đã nghĩ đến làm thêm mái đất bên dưới để cách ly lửa nếu hỏa hoạn xảy ra.

Ngày nay, xu hướng "đô thị hóa nông thôn" đã làm thay đổi cảnh quan kiến trúc của nhiều làng quê Việt Nam trong đó có Quảng Nam. Và làng Lộc Yên, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước cũng đã có dấu hiệu của vật liệu xây dựng hiện đại. Đầu tiên là những con đường chính dẫn vào làng đã bê tông hóa, các viên đá xếp chồng nhau cũng như đường dẫn vào nhà có đoạn đã bê tông, chí ít xi măng cũng đã tham gia làm những mảng thực vật bị hủy hoại. Không gian ở, mặt bằng sinh hoạt có thay đổi cho phù hợp cuộc sống hôm nay đã dẫn đến nhiều ngôi nhà xưa bị biến dạng do chủ nhà tự ý sửa chữa bằng vật liệu mới, hiện đại như bê tông, gạch men, kính. Trong năm 2000, chúng tôi đã đến khảo sát đo vẽ nhà anh Nguyễn Đình Mẫn nhưng năm 2007 đã thay đổi ở ngôi nhà ngang (lợp lại mái, thay cột, xây lại tường, bỏ nhà bếp)

          Còn nhà lá mái (loại nhà Rường) ở trong làng hầu như đã bị dở bỏ thay vào đó lợp mái ngói sau 1940. May mắn chỉ còn ngôi nhà của ông Trần Khiêm vẫn còn giữ được phần mái và thân nhà bằng đất, tuy nhiên chủ nhà cũng đã có dự định phá bỏ trong nay mai. Trong 7 kiến trúc là nhà ở có khung bằng gỗ đang hiện còn trong làng Lộc Yên thì hầu như nhà nào cũng có dấu hiệu mối mọt đe dọa các thành phần cấu kiện bằng gỗ, một số nhà mái bị dột có nguy cơ ảnh hưởng khung sườn gỗ bên trong. Khi hỏi ý kiến của chủ nhân của những ngôi nhà xưa trên thì đều có ý sửa chữa trong những năm đến.

Nói đến làng cổ là nói đến những ngôi nhà cổ, giá trị của chúng được người xưa xây dựng trong một không gian tương ứng với giá trị của nó. Và vì vậy việc bảo tồn nhà cổ phải bắt đầu từ việc khôi phục không chỉ kiến trúc mà phải chú trọng đến không gian chung quanh mà kiến trúc cổ truyền ấy đã tọa lạc. Những giá trị không gian, cảnh quan môi trường sống, kiến trúc ở tại làng Lộc Yên này có thể bị hư hại, mất đi hay biến dạng trong tương lai không xa. Để tìm hiểu kỹ về giá trị không gian độc đáo của ngôi làng cổ này cần có sự tham gia nghiên cứu của các nhà chuyên môn, để từ đó có giải pháp thích đáng để bảo vệ, phát huy giá trị.

Nguyễn Thượng Hỷ - TT Quản Lý Di Tích và Danh Thắng Quảng Nam

(1) Tiền án hay Chu tước: Trong không gian minh đường có các núi, gò đống nổi lên (theo thuật ngữ địa lý xưa gọi là Sa ….., Sơn …… là các dạng thể nhô lên trong các mặt thanh long, bạch hổ, minh đường). Tùy theo vị trí gọi tên riêng để phân biệt. Thí dụ, gần với kiến trúc thì gọi là tiền án hay án sơn, xa hơn thì gọi là triền sơn hay chu tước (Phượng hoàng đỏ). Nhưng nhìn chung, chức năng của tiền án hay chu tước là che chắn, bảo vệ ở mặt trước kiến trúc, tránh tác động trực xung và cửa cái kiến trúc nên cũng gọi chung là “tiền án”. (Trích Cổ học Phương đông trong nghệ thuật kiến trúc của Lương Trọng Nhân, trang 132, NXB Lao Động, 2006).

(2) Đối với người Việt xưa thì: “Mảnh đất mà họ chọn để dựng nhà phải là một khu đất dạng đất bồi, có thể sinh cơ lập nghiệp lâu dài mà không bị sạt lỡ. Khu đất ấy lại phải có “Tả thanh long, hữu bạch hỗ, tiền chu tước, hậu huyền vũ”, tức là một địa hình có sông hồ đăng đối với gò bãi, có đồng rộng thông thoáng đằng trước để làm ruộng và có mặt nước đằng sau để kiếm cá”. (Theo Chu Quang Trứ, Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, tập 1, sđd trang 202-203, NXB Mỹ Thuật, 2002).

(3) Cửa ngõ thường không làm đúng chính giữa nhà và sân để người ngoài nhìn thẳng vào trung tâm nhà … (theo Việt Nam Văn hóa Sử cương của Đào Duy Anh, NXB Văn hóa thông tin, 2003).

(4) Mua từ Hội An lên, chuyên chở bằng đường sông đến bến Kỳ Phú, Tam Kỳ rồi chuyển lên xe đến Tiên Phước, cuối cùng là gánh bộ về làng nên giá thành theo lời kể của cụ Huỳnh Anh là rất cao, giá tại thời điểm thi công 1xu/viên.

(5) Vài năm gần đây trong nhiều lần đi điền dã, tôi phát hiện hầu như các ngôi nhà xưa bằng gỗ ở Cù Lao Ré/đảo Lý Sơn đều là nhà lá mái người địa phương gọi là nhà bỏ đất .Ở Quảng Nam vùng miền Tây của huyện Thăng Bình và huyện Quế Sơn đã từng xuất hiện loại kiến trúc này