Chí sĩ Lê Vĩnh Huy
Liệt sĩ, chiến sĩ Nghĩa hội, tên thật là Lê Ngọc Cung (Nhâm Dần 1842 - Bính Thìn 1916), tự Vĩnh Huy, tục danh là Bang Tuyến hay Tán Hai (chức danh thời Nghĩa hội), sau lấy tên tự làm tên chính. Ông là con trai thứ phó bảng Lê Vĩnh Khanh (1819-1884) quê làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang thượng, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, Tỉnh Quảng
Xuất thân trong một gia đình Nho học, tuổỉ trẻ học giỏi, nhưng nhiều lần lều chõng chỉ đậu Tú tài.
Năm Ất Dậu 1885, phong trào Nghĩa hội phát động ở Quảng Nam dưới quyền lãnh đạo của Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, ông giữ chức Bang tá rồi Tán lí quân vụ thuộc Nghĩa hội Quảng Nam.
Năm 1886 sau khi Nguyễn Duy Hiệu dời bản doanh và bộ Tham mưu đến Nà Lầu (nay thuộc thôn 10 xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước), Lê Vĩnh Huy trực tiếp chỉ huy một cánh quân chính để bảo vệ bản doanh. Quân triều nhiều lần bao vây, đánh phá khu vựa này, ông dũng cảm chỉ huy, chiến đấu góp phần tạo nên các chiến thắng tại các trận Nà Lầu, Suối Đá, Dốc Miếu (thuộc Tiên Phước).
Bia mộ Chí sĩ Lê Vĩnh Huy
Tháng 2 năm 1886 ông cùng Hồ Học đem một cánh quân lớn, hợp đồng với các cánh quân của Phan Bá Phiến từ Nam Hà Đông (Tam Kỳ) tiến ra đánh tỉnh Quảng Nam tại Vĩnh Điện (nay thuộc huyện Điện Bàn). Sau đó, quân triều đình phản công, nghĩa quân phải rút về căn cứ ở Quế Sơn, Tiên Phước, Trà Mi...
Vào hạ tuần tháng 7 năm 1887, bản doanh Nghĩa hội bị bao vây, địch tấn công nhiều mặt, Phan Bá Phiến, Nguyễn Duy Hiệu lần lượt hy sinh. Phong trào Nghĩa hội đi vào thoái trào, một số bị bắt, còn phần lớn lui về mai danh ẩn tích tại quê nhà, (do Nguyễn Duy Hiệu không khai báo) trong đó có ông. Một thời gian sau (khoảng 1898) ông được bầu làm Chánh tổng Tiên Giang, ông vui vẻ nhận chức để dễ bề hoạt động, ngầm tán trợ các phong trào yêu nước khác.
Các năm 1902-1908, ông là một trong các nhân vật ngấm ngầm tán trợ cho phong trào Duy tân, nhất là đứng ta tổ chức phong trào Đông du tại Quảng Nam (cùng với Nguyễn Thành). Theo sự phân công của tổ chức Duy tân hội (thuộc phong trào Đông du) ông là người phụ trách việc vận động và đưa thanh niên sang du học ở Nhật Bản. Chính ông đã hiến nửa gia tài (trong số tiền bán quế, tiêu. chè) của ông cho phong trào. Em trai ông là Lê Quí Liên, và hai con ông là Lê Triêm và Lê Duyện và cháu là Lê Liễn đều xuất dương học tại Nhật. Trong khi đó ông vẫn là một trong các nhân vật do thực hành cải cách theo chủ trương của phong trào Duy tân giúp cho sinh hoạt xã hội ở Tiên Phước lúc ấy rất khởi sắc.
Các con trai ông là Lê Triêm (Lê Ngọc Cẩn) Lê Duyện (Lê Toản) các cháu Lê Tiễn (Lục Hợp) là những cánh tay đắt lực của phong trào Duy tân, sau đều là nạn nhân của chính phủ Nam triều và hi sinh vì nước trong hai chính biến lớn: phong trào Duy tân năm 1908 và cuộc khởi nghĩa vua Duy Tân năm 1916.
Năm Mậu Thân 1908, ông bị
Trong cuộc khởi nghĩa này, tại Tiên Phước, Tam Kỳ; ông cùng Thẩm Tùng Vân (Hoa kiều) Út Pen, Phạm Hoanh, Trần Chương, Trần Cang, Lương Đình Thực (1871-...), Nguyễn Nên, Trần Chu, Đỗ Đăng Cảnh ở Tam Kì... phụ trách việc đánh chiếm Toà Đại lí và phủ đường. Trong khi đó ở Huế cuộc khởi nghĩa bị lộ; vua Duy Tân, Trần Cao Vân, Thái Phiên cùng bộ tham mưu phải rời bỏ kinh thành.
Mộ cụ Lê Vĩnh Huy
Riêng tại phủ Tam Kỳ, lực lượng nghĩa quân ngay trong đêm mùng ba rạng 4-5-1916 vì không có mật lệnh như đã hẹn trước, nhưng lòng dân sôi sục căm thù, ông và các đồng chí huy động dân chúng đến vậy đồn Đại lý Tam Kỳ và phủ đường bắt Tri phủ Tạ Thúc Xuyên trói lại nhưng đến sáng ngày 4-5 các đội lính lê dương súng đạn tề chỉnh ồ ạt trấn áp lực lượng khởi nghĩa. Nghĩa quân và dân chúng đều phải rút lui.
Sau đó, Pháp và tay sai
Tại Tiên Phước gia đình ông Lê Vĩnh Khanh - Lê Vĩnh Huy là một trong vài gia đình đã bỏ cả tài sản, xương máu vào công cuộc giành độc lập cho Tổ quốc nói chung và Quảng Nam nói riêng, đáng là một bài học lớn cho hậu thế trong công cuộc giữ nước.
Tế tửu Quốc tử giám Nguyễn Đình Tựu