Làng tôi Mỹ An
Làng tôi ở ven sông. Từ bao đời nay, tổ tiên ông bà cha mẹ tôi gắn với làng với sông. Làng quê và sông nước trở thành máu thịt của mỗi người. Biết vậy nhưng làm sao nói hết? Làng tôi, cái làng xưa nay mang nhiều tên gọi khác nhau, thời phong kiến gọi là Sơn Yên sau này là Mỹ An. Hiện nay là An Tây thuộc thị trấn Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước. Nhưng dù tên gọi thế nào đi nữa thì tên làng vẫn là những cái tên đẹp nhất trên đời.
Đẹp vì làng có con sông Tiên ngược dòng chảy qua thị trấn Tiên Kỳ ghé đến làng tôi xuống Tiên Châu, Tiên Hà qua Hiệp Đức, Duy Xuyên, Hội An… Cuối cùng xuôi ra biển. Sông chảy qua làng, ăn ở với làng muôn đời muôn kiếp, bồi đắp cho đất của làng những phù sa màu mỡ tốt tươi. Biết thế nên ngày xưa ông bà ta đã trồng tre giữ sông, giữ làng. Tre được trồng trên hai bên bờ sông. Nhiều lớp măng tre đã sống bình yên trong sự chăm sóc của dân làng và cứ thế lớn lên, lớn lên xanh tươi, bền chặt.
Sông đi vào tuổi thơ và đời người. Hồi nhỏ chăn trâu, tôi thường cho trâu xuống sông ngâm mình dưới nước. Còn bọn trẻ như tôi tha hồ tắm bơi hụp lặn, không bãi, bến, vực nào của sông mà tôi không đến để mò tôm, bắt những con cá đép dẹp bằng hai ngón tay nằm trên ghềnh, đem lên bờ nướng rồi quấn lá vừng chấm muối trắng ăn vừa béo vừa chát vừa mặn. Thật là tuyệt!. Sông chảy qua làng tôi có nhiều vực và bến. Vực dài, bến Lò Rèn, bến Đá Bàn, nơi có con đò nhỏ mùa nước lớn đưa khách sang sông qua đôi bờ Tiên Kỳ, Tiên Châu. Còn vực Vong, vực Sậy nơi nước sâu nhất, chúng tôi thường thách nhau: “Ai lặn sâu hơn ai?” bằng cách trèo lên cây sung cao gần chục mét rồi gieo mình xuống vực, lặn xuống đáy sông lấy một nắm cát lên. Ở những vực này, hàng năm thế nào cũng có người chết đuối. Bà con trong làng nói: “Có người chết trời mới hết mưa”.
Sông quê tôi cũng như người ở làng, lúc phẳng lặng bình yên, lúc đục ngầu giận dữ. Mùa nước cạn, sông thu mình lại, phô diễn những ghềnh đá xanh rêu, những bãi cát vàng ôm lấy những bụi rù rì, cây duối, cây vừng xanh tốt. Nước lên, thân rù rì um tùm non tơ là nơi trú ngụ lý tưởng của các loài cá lát, cá hanh, cá niên, cá rói... Còn những thân đuối dài thì như chiếc roi nhẹ nhàng phe phẩy theo con nước trôi. Xuân đến, những cây vừng to bự sần sùi trổ lộc tươi non, cho những chùm hoa đỏ, nhỏ xíu mịn màng, bẽn lẽn soi mình xuống nước. Chiều về, hoàng hôn phủ lên dòng sông những áng mây tím trôi nhẹ, tím cả bầu trời, tím cả dòng sông. Mùa nước lớn, sông ghé thăm làng, ban thưởng cho làng những phù sa màu mỡ. Cứ thế, hết mùa này đến mùa nọ sông cần mẫn bền bỉ làm việc cho làng. Nhiều lúc sông oằn mình chịu đựng trước sự thô bạo đào bới phá phách của con người. Sông giận dữ gào thét xông lên cuốn trôi tất cả mọi thứ của làng.
Khúc quanh đường đến làng tôi
Làng có nhiều xóm. Ngày xưa làng tôi mỗi xóm có một tên gọi như xóm Chùa, xóm Vườn Đình, xóm Miếu … Dần dần tên gọi của xóm cũng mai một đi theo thời gian. Từ bao đời đất của làng vẫn thế, không sinh sôi nẩy nở nhưng dân làng thì ngày một đông. Không đâu xa, nửa thế kỷ trước đây, làng chỉ có vài chục hộ, bốn năm chục khẩu, sống trong những ngôi nhà gỗ lợp tranh xinh xắn và những khu vườn rộng trồng chuối, cau, chè, quế…. Một số nhà gần sông, bà con đưa thuyền xuống sông bắt tôm, bắt cá mang ra chợ bán. Còn lại đa số làm ruộng làm vườn. Mà làm ruộng làm vườn thì nhà nào cũng có cái cày cái bừa, cối xay, cối giã, đòn xóc, nong nia thúng, mủng, giần, sàng để ngăn nắp một nơi trong nhà. Con trâu là đầu cơ nghiệp. Nhà nào có trâu thì đi cày đi bừa. Nhà không có trâu phải nai lưng cuốc cào gãi đất. Đến ngày mùa, các chị đem hái ra gặt, các anh bó lại từng bó, rồi gánh kẽo cà, kẽo kịt về nhà, chuẩn bị cho đạp lúa ban đêm.
Nhà quê, đêm trăng mà đạp lúa thì vui phải biết! Các anh xúm nhau mở những sợi lạt buộc bó lúa ra, để gốc xuống đất, ngọn lên trời, chất thành đống tròn rồi dắt trâu đi vòng quanh, vòng quanh trên nhả lúa. Trăng lên cao, chênh chếch bóng về khuya, hương lúa mới thơm lừng lựng. Lúa rụng hết hạt xuống sân nền, các chị gom những cộng rơm không còn hạt ra vườn. Chung quanh nhả lúa, có biết bao nhiêu câu chuyện lúc râm ran, lúc sôi nổi. Tiếu lâm, cổ tích, có! Chọc ghẹo nhau, có! Có cả những câu hò khoan đối đáp cho những mối tình trai gái của làng thành chồng thành vợ.
Làng tôi, ngày xưa có ngôi chùa Kim Sơn Tự được xây dựng cách đây hơn thế kỷ trên khu đất rộng và cao, Chùa xây theo kiểu nhà cổ có tám cột to một ôm, gánh những vày kèo được chạm trổ các hình Long, Lân, Quy, Phụng rất kỳ công tinh xảo. Chùa có ba gian, hai mái hai hè. Mái chùa lợp ngói âm dương rêu phong ẩm mốc. Bốn quyết nhà nơi giáp giữa hè và mái có dựng bốn con rồng chầu nguyệt. Chùa trông về hướng tây có cái ngõ dài trông ra đồng ruộng nối với con đường làng đi qua. Trong chùa thờ ông Quan Công mặt đỏ, râu dài ngồi uy nghi ở gian giữa. Nghe nói râu của ông Quan Công được chọn từ bộ tóc dài của ông xã Chuyên trong làng. Sau khi ông xã Chuyên hiến tóc để làm râu, được làng ban thưởng cho ông một mẫu ruộng. Bên phải là ông quan Văn mặt trắng đứng chắp tay nghiêm nghị. Bên trái có ông quan Võ mặt đen như than, cầm cây gươm chỉ lên trời. Phía trước sân chùa có tấm bình phong chạm hình con hạc đứng trên lưng con rùa và cây sơn tuế hai nhánh xòe ra những tán lá xanh mượt. Bởi thế nên từ lâu dân làng đã tả ngôi chùa qua bốn câu thơ:
" Ông chi ăn ớt mặt đỏ gay.
Một bên một chú đứng khoanh tay.
Một bên thằng mọi cầm con mát.
Trước cửa Cà cuống giậm Cà cay ".
Chùa có cây thị già ở phía sau, mùa nào cũng cho những quả lớn nhỏ chín vàng, thơm lừng lựng. Thị của chùa thiêng nên con nít không đứa nào dám hái. Bà con trong làng đồn rằng: Một hôm có đứa con trai trong xóm nghịch ngợm đứng tè lên thân cây thị, khi leo lên hái quả, bị phạt rơi xuống gãy tay…
Chùa là nơi để dân làng thờ cúng. Trước đây vào những năm trời hạn, không mưa, dân làng đến chùa cầu mưa là được trời cho nước xuống. Chùa trở thành cõi tâm linh của dân làng. Nói đến chùa Tú Sơn ai cũng phải kiêng kỵ, đi qua con đường trước ngõ chùa đều phải kính cẩn nghiêng mình lấy nón mũ xuống.
Năm 1982, ba tôi được mấy ông lãnh đạo xã yêu cầu huy động bà con trong làng đến tháo dỡ chùa, lấy vật liệu như cột kèo đòn tay về xã làm nhà đội sản xuất, trường học. Công việc diễn ra chớp nhoáng trong một ngày. Tối lại khi về nhà trong giấc ngủ, tôi nghe ông la ú ớ. Tiếng la lúc một lớn. Tôi hỏi: " Chuyện gì ba la vậy? Mớ à!” Ba tôi bảo:" Ba thấy có ông già tóc bạc râu dài bẻ tay ba. Tôi bảo: "Thôi ba ngủ đi! Không có gì đâu. Ba nằm gối tay lên đầu máu không lưu thông nên thấy vậy!".
Sáng sớm ở làng Mỹ An quê tôi
Chiều hôm sau, tôi ngồi trước cửa nhà bỗng nghe có tiếng kêu như tiếng nổ chẻ tre ở phía trước ngõ nhà. Nhìn ra ngõ thấy ba tôi ôm cái tay gãy chạy vào sân. Ba tôi nói: "Tau dắt con trâu Cộ nhà mình về đến ngõ, không ngờ nó ở phía sau xông lên báng vào người tau cái tay gãy làm đôi đây nè!". Nói xong mồ hôi trong người ba tôi vã ra, người xây xẩm, qụy xuống. Máu ở vết thương trên cánh tay chảy ròng ròng. Tôi hoảng quá tìm khúc cây và dây vải để cột nẹp cố định cánh tay ba lại rồi cõng ba ra bệnh viện huyện. Ngày hôm sau đưa ba xuống bệnh viện Tam Kỳ băng bột. Một tháng sau tay vẫn không hết sưng. Mẹ tôi phải chạy phương ngoại, ba tôi mới đỡ.
Làng nước có cõi tâm linh cũng là nơi cho dân làng đặt niềm tin vào đó để sống tốt cho đời, sống có trước có sau, có kiêng có kỵ. Tiếc thật! Ngôi chùa không còn nữa là không còn cái gốc, cái hồn của làng một thời cha ông xây dựng cho hậu thế.
Làng bên sông của tôi ngày xưa là vậy đó! Có câu chuyện vui đi theo cả đời người và những chuyện buồn năm tháng chẳng quên.
Làng ven sông ngày nay khác hơn nhiều. Làng có hơn một trăm bốn chục hộ, gần bốn trăm khẩu. Nhà xây mái ngói nhìn ra những con đường bằng xi-măng bê- tông chạy ngoằn ngoèo quanh các xóm. Mùa gặt không cần đòn xóc để gánh lúa. Gặt xong, lúa được để trên bờ từng đống cho máy suốt, máy phun chạy phành phạch một lúc là tách lúa ra khỏi rơm, cho lúa vào bao đưa lên xe chở một mạch về nhà, phơi trên tấm bạt phủ trong sân. Lúa khô chở đi máy thành gạo. Không xay lúa, không giã gạo, không giần, không sàng cho nên cối xay, cối giã, đòn xóc, nong, nia, giần, sàng cũng thất nghiệp, nằm yên lụy tàn theo năm tháng.
Ngày nay, trước sự phát triển của cuộc sống, nhìn lại thấy cái vui, cái buồn, cái còn, cái mất. Vui vì cuộc sống của dân làng đổi mới hơn, còn một dòng sông bên lở bên bồi, còn cái vốn quý chịu thương chịu khó, chân chất, mộc mạc, bao dung rộng lượng, gắn bó thủy chung của dân làng nhưng lại mất đi ngôi chùa, bờ tre, cây vừng, bãi cát... Tất cả rồi chỉ còn kỷ niệm, là ký ức ở người lớn và cổ tích với trẻ con.
Tin rằng cuộc sống nay mai của con người bên sự đủ đầy còn có nhân văn (nhân hậu) để làng được an bình tươi đẹp như tên gọi của nó xưa nay.
Nguyễn Khánh
* Trích tự truyện " Thị trấn ven sông"