Cụ Huỳnh Thúc Kháng người luôn lắng nghe Tiếng Dân
Kỷ niệm 65 năm ngày qua đời của cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876–1947), nhân vật lịch sử đã để lại dấu ấn không chỉ ở Quảng Nam mà cả miền Trung Việt Nam, ngày 20 tháng 4 năm 2012, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức cuộc hội thảo “Thân thế và sự nghiệp cụ Huỳnh Thúc Kháng” tại quê hương cụ Huỳnh ở huyện Tiên Phước. Nhân dịp này chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc một số tham luận trong Hội thảo.
Vào thời buổi cụ Huỳnh Thúc Kháng sinh sống, nhân dân chịu nỗi thống khổ hai tròng của thực dân và phong kiến, cơ cực, lầm than và gần như bị tước hết quyền, kể cả quyền được sống, mà sau này trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh có trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ để nói rằng “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc” – một lập luận hiển nhiên và đanh thép để khẳng định “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Nhưng mục đích sâu xa hơn là để phê phán xã hội đương thời và tuyên bố một xã hội mới ra đời: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một nhà nước bảo đảm các “quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” cho nhân dân.
Trước tình cảnh của nhân dân và nhận ra bản chất hủ bại của chính quyền đương thời, cụ Huỳnh luôn trăn trở, lo âu đến đời sống và quyền của nhân dân. Nhân dân thôi thúc cụ hành động. Giá trị cao quý này của cụ là thước đo, là tấm gương chiếu rất gần và nguyên giá trị để chúng ta đo, soi vào đó với cuộc vận động mà chúng ta đang thực hiện, sẽ thực hiện, đang hô hào về phục vụ nhân dân. Cụ Huỳnh là hiện thân sinh động cho tinh thần phục vụ nhân dân và đó là giá trị vĩnh hằng.
Trong toàn bộ trước tác của mình, cụ Huỳnh dành nhiều trang viết về nhân dân/dân/đồng bào/quốc dân. Quan niệm về nhân dân trong tác phẩm của cụ là nhân dân chịu bao nỗi cực khổ và nỗi đau mất nước. Cụ thấy được sức mạnh nhân dân và lãnh lấy sứ mệnh thay mặt nhân dân lên tiếng với chính quyền. Trong con người cụ luôn thường trực “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.
Xót xa tình cảnh nhân dân, đau nỗi đau nhân thế
Sinh thời, cụ có lần bộc bạch: “Tôi một học trò gốc sinh trưởng nhà nông nghèo trong thôn quê, đã là cái hoàn cảnh phác dã, thô vụng, khô khan, quê kệch, gia dĩ đặc tính trời phú ham mê về sự học, nửa đời người tôi, ngoài cái văn thơ sách vở ra, gần như không có gì gọi là “mỹ cảm”. Bởi vậy, trong bạn lứa anh em đồng thời với tôi… thường có lời nhạo tôi là “lão phác” vì không biết bốn cái hứng thú mà làng văn thích ngoạn thưởng: không biết uống rượu, không biết chơi hoa, không biết ngắm sắc, không biết thưởng sơn thuỷ”. Tuy nhiên, đọc thơ ta thấy cụ phong nhã. Là nhà nho, như bao chí sĩ khác, thơ cụ để dãi bày nỗi lòng thời thế. Theo cách của cụ, một sĩ phu chân chính lúc nước mất nhà tan, cảnh tình dân chúng thì không thể nào an tâm hưởng hoa vọng nguyệt được…
Với tên Đào Mộng Giác (chung của cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp) làm một bài thơ Chí Thành Thông Thánh và một bài phú Danh Sơn Lương Ngọc, để lẫn vào các quyển học trò cho dễ truyền bá trong kỳ thi ở Bình Định (1905), với những ý tứ về thời thế và trách nhiệm của sỹ phu thức tỉnh cả nước:
“Vạn dân nô lệ cường quyền hạ
Bát cổ văn chương túy mộng trung”
(Muôn dân chịu kiếp sống nô lệ dưới ách cường quyền, vậy mà sỹ tử vẫn mê say trong giấc mộng văn chương bát cổ).
Tình cảnh cơ cực, bần hàn làm đau lòng cụ. Cụ trăn trở, thổn thức với nhân dân qua các cảnh thật cảm động:
…Mặt mũi áo quần bùn chất đống
Tối lại trời đen mò, tát nước gàu dai thở hù họng
Mồ hôi nước mắt trộn làm phân…
(Nhà nông nghèo ở thôn quê, Tiếng Dân 476, số 9/4/1932)
Dân nghèo không ruộng biết nhờ ai?
Đậu, bắp, mì, khoai, gạo đỡ ngày
Chẳng rõ vì sao thêm mối khổ?
Hôm qua ông Lý bắt đòi khai
(Cảnh nhà quê, Tiếng Dân số 493, ngày 8/6/1932)
Khóc than biết có thấu trời chăng
Trời cứ thinh thinh chẳng nói năng
Xin hỏi dân này bần lại khổ
Tai ương chồng chất mấy trăm lần
(Dân xứ bị lụt, Tiếng Dân số 531, ngày 19/10/1932)
Và từ đó, cụ có thư gởi Ủy ban điều tra Quốc hội Pháp vào ngày 9/11/1937, để đề đạt nguyện vọng của nhân dân.
Khẳng định vai trò của nhân dân
“Bộ ba” Quảng Nam thời bấy giờ có những quan niệm về nhân dân rất tiến bộ. Trần Quý Cáp: giáo dân, dưỡng dân, tân dân. Phan Châu Trinh: Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Trong phong trào duy tân của các cụ, cụ Huỳnh quan niệm giữa vũ trụ này là nhân dân:
“Sinh ra một nước phải lo phần
Dưới đất trên trời giữa có dân”
(Tiếng Dân tự đề)(1).
Cụ giảng “nghĩa chữ dân” cặn kẽ và sâu sát. Theo cụ, “Hợp dân thành nước” và “Nước lấy dân làm gốc, dân an thì nước mới vững bền”(2).
Về mối quan hệ dân quyền và nhân quyền, cụ cho rằng “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” thì dân và nhân chả khác gì cả (Tiếng Dân số 955, ngày 3/9/1936). Đây là quan niệm hiện đại. Trên cơ sở đó, cụ tiếp tục thể hiện trong luận “Chánh trị trong nước mà muốn cho nhân dân có lòng tín nhiệm thì cần nhứt là điều gì” (Tiếng Dân, số 286 (31/5) và 287 (4/6/1930).
Những quan niệm đó đều bắt đầu “Dân quyền mầm mống đầu tiên đấy” và được thể hiện súc tích, cụ thể “nước là có lãnh thổ, có nhân dân và chính quyền” (Tiếng Dân, số 1750, ngày 27/2/1943).
Trong ưu tư thế thái nhân tình nặng trĩu ấy, cụ Huỳnh cho rằng, dù có bao thay đổi bể dâu, nhân dân vẫn là hồn nước, nước là nước của nhân dân:
Cuộc đời thay đổi biển ra cồn
Người có lương tâm nước có hồn
(Khóc cụ Giải Huân)
Nhưng dù thế nào chăng nữa, đất nước ngàn năm vẫn nguyên vẹn trong lòng dân tộc, trong tâm trí mọi người. Ý thức trách nhiệm về đất nước thiêng liêng:
Non sông nước cũ còn nguyên đó
Kéo lại nhành xuân để đợi ai
(Tết, Tiếng Dân, số 253, ngày 29/1/1930)
Cách mạng tháng Tám thành công, cụ nhận ra sức mạnh nhân dân là to lớn. Lời thơ hào sảng, đầy nghĩa khí trong tác phẩm viết bằng chữ Hán “Việt Nam Chính phủ Quân dân chính kháng chiến Ủy ban kính cáo đồng bào quốc dân thư” (bản dịch của Nguyễn Ngọc Tỉnh):
“Một trường oanh liệt, dựng lại non sông…
… Sấm sét ầm ầm vang đất hạn; gió mây rầm rập thét oai quân…”
Sau khi reo vui “sướng ơi là sướng” với nền độc lập, cụ Huỳnh nhấn mạnh: cần phải bảo vệ thành quả cách mạng đó. Để bảo vệ, không có sức mạnh nào bằng sức mạnh nhân dân, đó là sức mạnh không có gì ngăn cản được. Trong “Bài ca cứu quốc”, cụ Huỳnh thôi thúc:
“Trung Nam Bắc hè nhau cùng dậy dậy,
Đem máu xương giữ lấy chủ quyền,
Sóng hoàn cầu dẫu bao cuộc biến thiên
Đường lịch sử quả nhiên thu phần thắng
Sức mạnh ấy chả thứ gì ngăn chặn
Thử ngẩng đầu trông thẳng suốt năm châu
Kìa ai đi ngược trào lưu!”
Tiếng Dân là dân lên tiếng
Sinh thời, cụ nói đại ý sao chẳng ai làm cả mà để nhà nho như cụ làm báo. Cụ làm báo cũng là vì dân: “Tiếng Dân là dân lên tiếng”. Trong Lời phi lộ của số báo đầu tiên, số 01 ngày 10-8-1927, cụ thẳng thừng đón nhận cái sứ mệnh:“Đối với đồng bào xin làm vị thuốc đắng, mong rằng bỏ lòng ghen ghét mà dốc lòng thương yêu; đối với chánh phủ xin làm người bạn ngay, mong rằng theo trình độ dân mà thật lòng cải cách”.
Tuyên ngôn báo chí bất di bất dịch, cực kỳ súc tích, vô cùng độc đáo: “Nếu không có quyền nói thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta buộc nói”. Hai năm sau, năm 1929, cụ khẳng định lại cái quyền bị tước mất và cái quyền không ai tước đi được của mình: “Vì rằng ta không có quyền tự do nói những điều nên nói, mà ta lại có quyền tự do không nói những cái không nên nói”…
Tờ báo Tiếng Dân của cụ chống chính quyền thuộc địa của Pháp và chính quyền Nam Triều rất quyết liệt và suốt 16 năm, trang báo của cụ đầy ắp bao nhiêu điều cần nói với đồng bào. Thời buổi của cụ mà không nói “a dua” thì đáng khâm phục. Có lẽ tinh thần này sống mãi, rực sáng với thời gian và lịch sử báo chí Việt Nam.
Cụ nói lên nỗi thống khổ của đồng bào và mạnh dạn vạch trần xảo ngôn, mị dân của thực dân Pháp để cho độc giả, đồng bào thấu hiểu. Cụ vinh danh các phong trào yêu nước, những cuộc cách mạng giành độc lập… Với cụ Huỳnh, “Dân là gốc nước – Tiếng dân đâu đó cũng là dân”. Số báo ra ngày 20 tháng 8 năm 1928, cụ khẳng định: “Ngày nay là ngày dân quyền phát đạt. Khắp trên thế giới chữ Dân đã hiện thành một chữ rất to lớn. Nét ngang, sổ dọc, đá ngược, vác xiên, sáng chói rõ ràng như mặt trời treo giữa khoảng không, gom tóm cả loài người trên mặt địa cầu, thâu vào dưới bóng sáng đó”.
Cứ mỗi lần có dịp viết về tờ báo của mình nhân ngày kỷ niệm các năm, cụ đều nhắc nhở lại trách nhiệm của người làm báo:
Ngòi bút chưa xong cái nợ đời
(Ngày đệ tứ chu niên báo Tiếng Dân, số 408 ngày 8/8/1931)
Ngòi bút quanh năm chẳng nới tay
(Khai bút, Tiếng Dân, số 460 ngày 13/2/1932)
Mực say bút múa sức xông pha
(Mừng kỷ niệm sinh nhật báo Tiếng Dân năm thứ năm, Tiếng Dân số 511 ngày 10/8/1932).
Mục đích của người làm báo là:
Ngậm khổ nuốt đau nín đã từng
Mới đây khắp xứ tiếng vang lừng
Kêu ngay giấc mộng nghìn năm dậy
Cuốn sạch màn che mấy lớp dừng.
….
Đồng bào ai nấy ghi cho nhớ
Tấn hóa đường kia bước chả ngừng
(Kỷ niệm đệ nhất chu niên báo Tiếng Dân, số 103 ngày 11/8/1928).
Và, khi tiếng nói của nhân dân vút lên, thì không thể nào “câm” (chữ cụ Huỳnh), với một ước nguyện duy nhất là có cuộc sống hạnh phúc, quyền thiêng liêng của con người:
Miễn đặng bà con may mặc ấm
Kéo tơ đâu dám kể công tằm
(Kỷ niệm đệ nhị chu niên báo Tiếng Dân, số 204, ngày 10/8/1929)(3).
Vì nhân dân mà hành xử
Cụ ra làm Viện trưởng cốt cũng vì dân, những mong giúp dân. Trong lời đáp Bài diễn thuyết của quan Khâm sứ đọc tại Viện Nhân dân đại biểu Trung Kỳ, Huế năm 1926, cụ nói rõ: “Anh em chúng tôi đã chịu nhân dân phó thác bắt đầu ra mà đương cái trách nhiệm này”. Nhưng khi gặp cảnh nghị gật, nghị hùa theo, không vì lợi ích nhân dân thì cụ dứt áo ra đi.
Việc cụ Huỳnh tham chính cũng là vì dân. Cụ ra Hà Nội là cốt để gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh chứ không hề có ý định làm quan, còn dặn anh em: “Tôi sẽ trở về lo việc công ty như thường”. Đến Hà Nội, nhân gặp Nguyễn Hải Thần, cụ Huỳnh cố gắng thuyết phục họ nên cộng tác thật sự với Chính phủ Liên hiệp. Được Nguyễn Hải Thần nghênh tiếp hậu đãi, những tưởng lấy lòng đặng “kéo” cụ, nhưng khi ra về, cụ rất ngán, thẳng thừng bảo: “Làm cách mạng như vậy thì sướng thật! Thấy bàn đèn, thấy mụ vợ Tàu trẻ, tự nhiên hết tin tưởng!” Nhưng khi nghe Hồ Chủ tịch giải thích không phải quan và thiết tha thỉnh cầu: “Trên con đường tranh đấu giành độc lập, cụ đã đi được 99 dặm, chỉ còn một dặm nữa, xin cụ đừng thoái thác!” Cụ Huỳnh thanh thản: “Nếu cụ thấy ba chữ Huỳnh Thúc Kháng còn chỗ dùng đối với Tổ quốc… thôi thì xin hiến cho cụ dùng” và tuyên bố: “Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng ra sức phụng sự Tổ quốc”. Khi nghe đến vì nhân dân, rất rõ ràng, không thoái thác, rất khí khái, cụ hiến cuộc đời cho Tổ quốc.
Cụ xử vụ án phố Ôn Như Hầu cũng trên quan điểm dân là trên hết, Tổ quốc trên hết. Cụ kêu gọi, mong mỏi khối đoàn kết dân tộc và khuyên mọi người phải tôn trọng pháp luật của Nhà nước, tôn trọng quyền sống và lợi ích của nhân dân. Trước vụ phố Ôn Như Hầu, nhân danh quyền Chủ tịch nước, cụ tuyên bố thẳng: “Đoàn kết là cần để xây dựng nền dân chủ cộng hòa, nhưng không thể dựa vào “đoàn kết” mà làm những điều phi pháp. Tôi khuyên mọi đảng phái, mọi phần tử quốc dân đoàn kết. Nhưng cũng vì quyền lợi quốc gia, tôi phải đem ra trước pháp luật những kẻ làm điều phi pháp. Pháp luật là pháp luật chung. Những đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng chân chính được bảo đảm sự tự do trong vòng pháp luật. Những kẻ bắt cóc, tống tiền, ám sát phải bị pháp luật nghiêm trị”.
Sau vụ án phố Ôn Như Hầu, những người trong Việt Nam Quốc dân đảng kéo đến Bắc Bộ phủ xin gặp cụ để thanh minh cho đường lối cách mạng của mình, cụ Huỳnh đã ra cầu thang cầm batoong chỉ thẳng vào mặt chúng quát to: “Đồ kẻ cướp! Đồ vô lại! Quốc gia dân tộc gì chúng mày!”(4) Đó cũng là tiếng quát của dân. Rất khí phách.
Bất kỳ thế lực nào mà đụng đến dân, đụng đến chính phủ của Hồ Chí Minh, đụng đến “hồng phúc của dân”… cụ không tha. Trên đường đi kinh lý miền Trung, khi cụ hô hào nhân dân theo Hồ Chủ tịch, có người nghi ngờ, cụ thẳng thừng và nghiêm: “Ông tưởng tôi tâng bốc cụ Hồ ư? Tôi xưa nay chưa biết nịnh ai. Sự thật thế nào tôi nói vậy!” Khi về đến Quảng Nam, gặp lại người xưa và hầu hết cũng là học trò cũ, cụ căn dặn: “Hôm nay với danh nghĩa một người thầy, một người bạn cũ có nhiều kinh nghiệm ở đời, tôi nói chuyện với các chú và có mấy lời khuyên các chú. Nếu chú nào có những hành động phá rối thì đừng có trách tôi sẽ lấy danh nghĩa đại diện Chính phủ Trung ương mà thẳng tay trừng trị”(5).
Cụ hành xử vì dân như vậy đến hơi thở cuối cùng.
Suốt cuộc đời, cụ không vô cảm trước nhân dân: lo trước cái lo thiên hạ, vui sau cái vui thiên hạ. Khối óc cụ luôn nghĩ về nhân dân. Trái tim cụ đau nỗi đau dân nước, vui nỗi vui dân nước. Với nhân dân, cụ luôn dành sự kính trọng và tận lực hướng dẫn nhân dân đi theo con đường ngay:
Đồng bào yêu dấu ta ơi
Quốc dân yêu dấu ta ơi
Lòng tốt sẵn rồi
Niềm tin vững nhé
(Thư của Ủy ban kháng chiến “quân dân chính” Chính phủ Việt Nam gởi quốc dân đồng bào)
Cụ sống trọn nghĩa với nhân dân, vì nhân dân. Cụ thanh thản ra đi giữa lòng nhân dân. Trong bài điếu văn “Thương tiếc cụ Huỳnh Thúc Kháng” đọc đầy xúc động của đại diện Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Ngãi đã kết thúc bằng hai vế đối thật súc tích, đầy ý nghĩa:
“Làm nghệ sĩ không vinh, tù Côn Lôn không nhục, khí tiết cội Tùng trơ mộ gốc
Lãnh Bộ trưởng trọn tài, quyền Chủ tịch trọn đức, tinh anh sao Vĩ chiếu ngàn thu”.
- Chương Thâu, Phạm Ngô Minh, Tuyển tập Huỳnh Thúc Kháng, Nxb Đà Nẵng năm 2010.
- “Tìm chân lý với học lịch sử quan hệ thế nào”, Tiếng Dân, số 567 (01/3) và 568 (4/3/1933), theo Chương Thâu, Phạm Ngô Minh, Sđd.
- Dẫn theo Chương Thâu- Phạm Ngô Minh, Sđd.
- Theo VOV online (dẫn theo tienphuoc.gov.vn)
- Dẫn theo Lâm Quang Thự: Người con Đất Quảng, Nxb Đà Nẵng.
Theo Tạp Chí Xưa & Nay - Số 401 (04/2012)