Chiến dịch Phước Lâm-Tiên Phước
Chiến dịch Phước Lâm-Tiên Phước (ngày 10-3-1975) là bước đột phá, tạo thời cơ giải phóng thị xã Tam Kỳ ngày 24-3-1975 và giải phóng thành phố Đà Nẵng ngày 29-3-1975, góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến dịch thu năm 1974, Tỉnh ủy Quảng Nam sử dụng lực lượng địa phương kết hợp với Sư đoàn 2-Quân khu 5 mở ra một mảng lớn ở Nông Sơn-Trung Phước, giải phóng giành 20.000 dân, mở rộng vùng giải phóng nối liền tây Quế Sơn-Thăng Bình, Tam Kỳ thành vùng giải phóng liên hoàn. Do chưa đánh giá hết sự suy yếu của địch nên Tỉnh ủy quyết định đưa 12.000 dân lên vùng giải phóng Hiệp Đức, vì sợ mất dân vì lúc này có được một người dân vùng giải phóng quý như vàng. Chiến trường Quảng Đà cũng giải phóng Chi khu Quận lỵ Thượng Đức, nơi án ngữ trực tiếp phía tây Đà Nẵng, là căn cứ lớn thứ hai của ngụy quân, ngụy quyền. Từ thực trạng đó, cơ quan chiến lược đã rút ra kết luận: quân chủ lực của ta có thể đánh bại được quân chủ lực ngụy, bằng lực lượng tổng hợp của 3 mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh địch vận.
Phong trào đấu tranh chính trị phát triển nhiều hình thức phong phú: đấu tranh đòi cứu đói, chống dồn dân, đòi bồi thường nhân mạng bị quân ngụy giết hại; chống càn quét, xáp vào lính ngụy đấu tranh ngăn không cho chúng tiếp viện, 800 lượt người đấu tranh đòi xác chồng con, 2.500 lượt người cùng lực lượng vũ trang bao vây bức hàng các chốt điểm của quân ngụy; hàng nghìn đồng bào Bình Lâm, Bình Lãnh tuyệt thực ở khu dồn dân Tứ Hiệp buộc địch phải cho về quê cũ làm ăn; ngày lễ Phật đản 600 đồng bào thị xã Tam Kỳ tập trung nghe thuyết pháp nhằm chống chiến tranh của Mỹ-ngụy. Sáu tháng đầu năm 1974 ta đã phát vào hàng ngũ địch 600.000 truyền đơn kêu gọi 500 binh sĩ ngụy về với cách mạng.
Đối với phong trào chiến tranh du kích, 6 tháng đầu năm 1974 ta xây dựng các xã chiến đấu nối liền từ Kỳ Phước, Kỳ An, Kỳ Mỹ dài 10km nối Kỳ Chánh, Kỳ Phú ra Bình Định, Bình Phú, Thăng Bình thành vùng giải phóng; mở thêm vùng Núi Vú, cắt từng đoạn đường Tam Kỳ-Tiên Phước.
Giữa năm 1974, anh Năm Công (Võ Chí Công) đi Hà Nội họp Bộ Chính trị để bàn về chủ trương giải phóng miền Nam, anh cho 4 Bí thư Tỉnh ủy đồng bằng: đồng chí Trần Thận, Bí thư Quảng Đà; đồng chí Lê Tấn Tỏa, Bí thư Quảng Ngãi; đồng chí Nguyễn Trung Tín, Bí thư Bình Định và tôi Hoàng Minh Thắng, Bí thư Quảng Nam cùng đi.
Cuộc họp Bộ Chính trị khai mạc vào ngày 18-12-1974. Đi họp Bộ Chính trị mở rộng, tối nào về anh Năm Công và anh Hai Mạnh (Chu Huy Mân) cũng đều phổ biến, trao đổi với chúng tôi, để suy nghĩ về phương án tấn công và nổi dậy của tỉnh mình.
- Vấn đề gay cấn và tốn nhiều thời gian nhất là ta đánh bại quân ngụy Sài Gòn thì Mỹ có đưa quân trở lại Việt Nam hay không? Vấn đề này được thảo luận rất sôi nổi, nhất là ý kiến các đồng chí chủ chốt của Đảng ta. Anh Phạm Văn Đồng nhận định nước Mỹ còn gặp nhiều bê bối, chưa dám nhúng tay vào Việt Nam lâu nữa, cho kẹo Mỹ cũng không trở lại. Nhiều đồng chí phát biểu sôi nổi, anh Nguyễn Duy Trinh tán thành ý kiến anh Phạm Văn Đồng.
Sau những ngày thảo luận, anh Lê Duẩn kết luận: Đề nghị Bộ Chính trị ra Nghị quyết phương án tấn công, nổi dậy giải phóng miền Nam trong 2 năm: năm 1975 tấn công, nổi dậy vùng nông thôn đồng bằng, cắt đứt giao thông địch, bao vây cô lập thành phố, nhất là 2 thành phố lớn Sài Gòn, Đà Nẵng; năm 1976 tấn công, nổi dậy giải phóng các thành phố còn lại, nhất là Sài Gòn - sào huyệt cuối cùng của chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Căn cứ vào nhận định, đánh giá địch tại 2 cuộc họp của Bộ Chính trị, anh Ba Duẩn nhấn mạnh: Thời cơ lịch sử do ta tạo ra, tấn công nổi dậy trong 2 năm 1975-1976, nhưng khi thời cơ đến thì lập tức chớp thời cơ giải phóng miền Nam trong năm 1975.
- Điểm đột phá chiến dịch mở màn đánh vào đâu? Nhiều ý kiến cho rằng sẽ đánh vào Tây Nguyên, gây tranh luận là Nam hay Bắc Tây Nguyên, lại có nhiều ý kiến nên đánh vào Pleiku vì nơi đây đang có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, duy có một thực tế trở ngại là trên đường 14 còn cứ điểm Đak-Pết do một tiểu đoàn Bảo an chốt giữ.
Anh Chu Huy Mân có ý kiến đề nghị Quân khu 5 bao vây, dùng cao xạ bắn máy bay, không cho địch tiếp tế, buộc địch phải rút bỏ. Thực hiện phương án trên, thực tế giữa tháng 2 địch rút chạy bỏ Đak-Pết. Có ý kiến đề nghị, điểm yếu của địch là ở Đông Nam Bộ, sát nách Sài Gòn cũng được đưa ra bàn thảo. Tôi được biết ý kiến anh Năm Công và anh Hai Mạnh vẫn kiên trì đề nghị đột phá vào Nam Tây Nguyên, cụ thể là Ban Mê Thuột mà nhiều đồng chí trong Bộ Chính trị đề nghị, nên phương án này đã được nhất trí cao.
- Một vấn đề còn nhiều ý kiến phải tính kỹ là có một triệu quân ngụy mà cơ số đạn của ta còn rất ít, nhất là đạn pháo? Đồng chí Lê Duẩn phân tích có cơ sở thực tế trên chiến trường, ta cần tiêu diệt một số đơn vị chủ lực quan trọng, từng sư đoàn quân ngụy, kết hợp với tấn công chính trị, binh vận của nhân dân làm cho địch tan rã tại chỗ, giải phóng từng vùng rộng lớn, bao gồm các căn cứ hậu cần của địch, vừa triệt tiêu sức chiến đấu của địch, vừa thu đạn dược tăng cường sức chiến đấu của ta. Với phương châm ấy, chúng ta có đủ điều kiện thế và lực giành thắng lợi cuối cùng.
Thực tế ở chiến trường Tam Kỳ và Đà Nẵng đã diễn ra đúng như vậy, khi ta diệt gọn từng sư đoàn chủ lực ngụy, lực lượng địch co cụm về Đà Nẵng 100.000 tên, nhân dân đã nổi dậy đấu tranh, hù dọa làm tan rã tại chỗ.
Trên đường đi về Quân khu, anh Năm Công và anh Hai Mạnh gọi tôi và anh Lê Tấn Tỏa giao nhiệm vụ. Sau khi giải phóng 2 thị xã Tam Kỳ-Quảng Ngãi, hai anh giữ đoạn đường 120km trong một năm, để ta có điều kiện giải phóng Đà Nẵng, toàn khu 5. Tôi nhận nhiệm vụ này, tâm trạng vừa mừng vừa lo, lo là thực hiện được nhiệm vụ này không dễ dàng, nhưng những điều đã tiếp thu được sau Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng càng làm tôi tin chắc rằng thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ đang đến gần…
Trung ương cấp cho một xe U-oát đít tròn, tôi và đồng chí Nguyễn Chính – Chánh Văn phòng chở đầy súng đạn, chạy suốt ngày đêm trở lại chiến trường, đầu tháng 2-1975 thì về đến cơ quan Tỉnh ủy đóng ở thôn 1 Phước Sơn. Về đến nơi, nghe Văn phòng Tỉnh ủy báo cáo lại, phương án cơ bản được thông qua rồi: chủ lực Quân khu đánh chiếm 2 chi khu quận lỵ Phước Lâm-Tiên Phước, 3 tiểu đoàn bộ binh, hỏa lực của tỉnh đánh địch ở phía Tây Tỉnh đường Quảng Tín.
Ngày 20 tháng 2 năm 1975, tôi đề nghị Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập họp Tỉnh ủy để thảo luận bố trí lại lực lượng của tỉnh. Trong cuộc họp đó, tôi báo cáo rõ ý đồ của Trung ương, Khu ủy, Quân khu đưa 3 tiểu đoàn bộ binh và hỏa lực của tỉnh xuống vùng đông Thăng Bình, có thời cơ là đánh thẳng vào đông Tam Kỳ, đánh trận địa pháo, cắt đứt cầu Kỳ Phú, không cho địch thoát ra biển; phối hợp với chủ lực Quân khu giải phóng thị xã Tam Kỳ.
Phân đội ĐKZ E31 chi viện, góp phần giải phóng Tiên Phước- Phước Lâm (10-3-1975). |
Trong cuộc họp này, Tỉnh ủy thảo luận, đấu tranh gay gắt rồi đi đến thống nhất. Tỉnh ủy phân công đi chỉ huy, chỉ đạo các hướng. Lập bộ phận tiền phương do Bí thư Tỉnh ủy cùng đồng chí Nguyễn Thành – Thường vụ Tỉnh ủy; Lê Hải Lý – quyền Tỉnh đội trưởng; Hồ Đắc Liễn – Chính trị viên Tỉnh đội; Trần Anh Vũ – Chính trị viên phó Tỉnh đội; Vũ Thành Năm – Tham mưu trưởng Tỉnh đội; Phan Thanh Toán – Bí thư Huyện ủy Thăng Bình, trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vùng đông.
Đồng chí Vũ Văn Đoàn – Phó Bí thư và một bộ phận cán bộ mạnh đi cùng Sư đoàn 2 giải phóng Tiên Phước-Phước Lâm, phát động quần chúng lập chính quyền, làm công tác binh địch vận, giải quyết các chính sách cụ thể sau khi được giải phóng.
Đồng chí Đỗ Thế Chấp – Phó Bí thư trực ở hậu cứ lo hậu cần cho lực lượng phía trước, giải quyết mọi công việc thường xuyên và đột xuất.
Trong chiến dịch Xuân 1975, ta chủ trương đánh cắt đứt một khâu trong dãy phòng ngự của ngụy, mục tiêu được chọn là hướng Tiên Phước, Phước Lâm, cách hướng tây Tam Kỳ 20km, vùng trung du này xen kẽ làng mạc với đồi núi, sông suối. Trong thế phòng ngự hiện tại là cụm chốt tiền tiêu trong vành đai phòng thủ của địch; nếu ta chiếm Tiên Phước, Phước Lâm, thị xã Tam Kỳ thì tuyến đường số 1 của ngụy sẽ bị uy hiếp trực tiếp.
Lực lượng địch ở đây gồm có khoảng 3.000 tên, 6 tiểu đoàn bảo an, 2 đại đội biệt lập, 41 trung đội dân vệ, nghĩa quân, 2 pháo đội (10 khẩu 105 và 155mm), toàn cụm phòng thủ có 77 cứ điểm chia làm 3 khu: Chi khu quận lỵ Tiên Phước, Chi khu quận lỵ Phước Lâm, dãy điểm cao Suối Đá, còn có 33 ấp chiến lược, 10 khu dồn dân. Tiên Phước là khu then chốt, mất Tiên Phước, các khu phòng thủ khác khó giữ vững. Khu Suối Đá nối liền núi Dãy Thám, Dương Huê, Dương Bàn Quân nối liền Tam Kỳ - Tiên Phước. Ta chiếm được Suối Đá như cài được cái then, khóa chặt lực lượng địch để tiêu diệt.
Hợp đồng với chiến dịch Trung ương ở Buôn Mê Thuột, Sư đoàn 2 bộ binh, Lữ đoàn 52 Quân khu 5; đoàn cán bộ của tỉnh, lực lượng địa phương Tiên Phước được lệnh tấn công, nổi dậy giải phóng Tiên Phước, Phước Lâm, nhiệm vụ cụ thể được phân công như sau:
- Trung đoàn 31 và 38 có nhiệm vụ tiêu diệt chi khu quận lỵ Tiên Phước.
- Lữ đoàn 52 tiêu diệt cụm địch Suối Đá.
- Trung đoàn 36 tiêu diệt cứ điểm Hàn Thôn, bao vây bức hàng Chi khu quận lỵ Phước Lâm, Trung đoàn 1 (Ba Gia) dự bị.
- Trung đoàn pháo 572 chi viện hỏa lực cho Lữ đoàn 52. Trung đoàn pháo 368 chi viện cho Trung đoàn 31 và 38. Trung đoàn cao xạ 573 của Quân khu bảo đảm đội hình cho đơn vị chiến đấu Tiên Phước, Suối Đá.
Đêm 8 tháng 3, các đơn vị của ta tiến vào vị trí tập kết an toàn. Ở Sở chỉ huy tiền phương của Tỉnh ủy, Tỉnh đội, chúng tôi – những người lăn lộn ở vùng đất này hồi hộp theo dõi. Chín giờ sáng ngày 9 tháng 3 có tin Liên đoàn 12 Biệt động ngụy, từ căn cứ Phú Lộc đang hành quân vào Tuần Dưỡng, địch phát hiện được điều gì chăng? Tại sao tiểu khu Quảng Tín không báo động? Nhưng đến lúc này địch làm gì cũng đã chậm rồi.
4 giờ 30 phút ngày 10 tháng 3, phối hợp với Buôn Mê Thuột, từ chân đồi Dương Côn, nơi đóng sở chỉ huy Sư đoàn 2, hai phát pháo hiệu xanh, đỏ vút lên bầu trời báo hiệu giờ G đã điểm, trận tấn công giải phóng Tiên Phước, Phước Lâm bắt đầu.
Đến 16 giờ cùng ngày, quân ta đã hoàn toàn làm chủ các mục tiêu trong phương án, đánh tan rã toàn bộ các đơn vị địch, nhưng chưa diệt gọn được đơn vị nào; nhiệm vụ diệt quân đồn trú đã được thực hiện, chiến sự diễn ra chỉ bằng 1/3 thời gian dự kiến ban đầu.
Bị một đòn choáng váng, theo lệnh của Ngô Quang Tưởng, điều Sư đoàn 2 ngụy từ Quảng Ngãi ra Tam Kỳ, chuẩn bị cho cuộc hành quân giải tỏa; ngày 11 tháng 3, Liên đoàn biệt động 12, cùng tiểu đoàn bảo an, chi đoàn xe bọc thép từ Tuần Dưỡng lên Cẩm Khê. Cùng ngày, Trung đoàn 5 và Trung đoàn 2 ngụy từ Quảng Ngãi ra cùng 2 tiểu đoàn bảo an có xe thiết giáp chi viện đánh lên Dương Leo – Dãy Thám.
Ngô Quang Tưởng ra lệnh điều tiếp Trung đoàn 4 Sư đoàn 2 ngụy từ Quảng ngãi ra, Trung đoàn 2 Sư đoàn 3 ngụy từ Quảng Đà vào để tăng cường lực lượng phản kích. Hành động này của địch đã tạo điều kiện cho lực lượng 3 tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Đà, Quảng Nam nổ súng tấn công, nổi dậy diệt các mục tiêu đã định trong phương án chiến dịch đã đề ra. Trong hai ngày 13-14 tháng 3, quân dân Quảng Nam tiêu diệt và bức rút 11 chốt điểm ở 3 xã phía tây Thăng Bình, mở đường để đưa 3 tiểu đoàn bộ binh và hỏa lực xuống vùng đông.
Trên hướng Tiên Phước, Phước Lâm, sau 7 ngày đêm chiến đấu tấn công và nổi dậy, ta đã làm chủ một khu vực rộng lớn, giải phóng 2 quận lỵ 2 chi khu rộng hơn 200km2, giải phóng 21.000 dân, loại khỏi vòng chiến đấu 3.000 tên ngụy. Bằng chính sách binh địch vận, đoàn công tác của tỉnh cùng cán bộ huyện đi từng nhà có con em đi lính ngụy, tuyên truyền giải thích cụ thể chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, kêu gọi con em về với gia đình.
Lúc đầu họ ngần ngại, sau đó một số anh em lính ngụy về ta giải thích chính sách, gia đình bảo lãnh, nên hầu hết 2.000 lính ngụy trở về với gia đình; có nhà làm thịt heo ăn mừng, hoan hô chính sách khoan hồng của Mặt trận. Trong lúc này, 12.000 dân huyện Tiên Phước ta giải phóng hồi tháng 9-1972, vì sợ mất dân nên di dời qua Phước Lộc cũng trở về. Lúc này huyện Tiên Phước có thêm dân cư đông vui, rất phấn khởi. Cùng với hàng nghìn dân công Trà My, Phước Sơn cùng Trung đoàn 803 công binh làm đường xuống tận Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà, Bình Phú, góp 60.000 ngày công vận tải vũ khí, lương thực tiếp tế cho bộ đội. Trên sông Khang, ghe thuyền của nhân dân được huy động, tấp nập chở súng đạn tham gia chiến dịch.
Đêm 23-3-1975, các đơn vị tham chiến trên chiến trường Phước Lâm – Tiên Phước được lệnh phản công địch, tiêu diệt Sư đoàn 2, 2 lữ đoàn biệt động ngụy, giải phóng thị xã Tam Kỳ. Cùng đêm đó, tôi và Sở chỉ huy tiền phương, được lệnh của Quân khu để bộ đội địa phương huyện phát động quần chúng, du kích giữ vùng giải phóng đông Thăng Bình, sử dụng 2 tiểu đoàn 70 + 72 đánh vượt qua Bình Nam – Kỳ Anh – Kỳ Phú (nơi chưa giải phóng) đánh vào diệt trận địa pháo Núi Cấm, đánh sập cầu Kỳ Phú, bao vây phía đông, quyết chặn không cho địch ở thị xã Tam Kỳ tháo chạy ra biển.
Sau 2 giờ rưỡi chiến đấu quyết liệt trên hướng tiến công chủ yếu, quân ta đánh diệt Trung đoàn 4 Sư đoàn 2 ngụy, làm chủ khu vực ngã ba Trường Xuân, sân bay Kỳ Bích. Trên hướng tấn công quan trọng, quân ta đánh chiếm Cẩm Khê, Cốc Rạng, Liên đoàn 12 biệt động bị tiêu diệt, số còn lại tháo chạy về Quán Rườn.
Tuyến phòng ngự lâm thời phía tây Tam Kỳ của địch bị phá vỡ, bọn sĩ quan, binh lính hoang mang, sở chỉ huy Sư đoàn 2, Trung đoàn 4, Trung đoàn 5, Liên đoàn biệt động 12 bị diệt và tháo chạy. Bọn địch ở tiểu khu Quảng Tín đốt tài liệu chuẩn bị tháo chạy, trận địa pháo địch ở Chu Lai kêu hết đạn.
Thừa thắng, quân ta từ 3 hướng: Đông, tây, nam có xe tăng dẫn đầu ồ ạt tấn công vào thị xã Tam Kỳ - một số bị tiêu diệt, số còn lại cùng Đào Mộng Xuân – tỉnh trưởng ở trần tháo chạy. Sở chỉ huy tiền phương tỉnh Quảng Nam điều 2 tiểu đoàn chặn địch ở Ngọc Phô diệt được 3 xe, bọn địch còn lại tháo chạy ra Đà Nẵng. 10 giờ 30 phút ngày 24 tháng 3 năm 1975, thị xã Tam Kỳ được giải phóng; ngày 27-3-1975 toàn tỉnh Quảng Nam được hoàn toàn giải phóng.
Có được thắng lợi to lớn đó, điều đáng ghi lại trong lịch sử tỉnh nhà chính là do Tỉnh ủy lúc bấy giờ có sự chọn hướng đúng đắn, đột phá mở màn cho chiến dịch đánh địch giải phóng Phước Lâm – Tiên Phước có ý nghĩa quan trọng góp phần làm nên Đại thắng mùa xuân 1975.
Hoàng Minh Thắng - Nguyên Bí thư tỉnh ủy Quảng Nam