www.donghuongtienphuoc.com - Đồng hương Tiên Phước - Quê hương là của chúng tôi nhưng cảm nhận là của bạn

Có hay không "Hoàng Thị Tòng - nữ anh hùng Việt Nam cận đại"?

LTS: Lâu nay có nhiều ý kiến trái chiều trên các diễn đàn về nhân vật Hoàng Thị Tòng (người làng Thanh Lâm, huyện Tiên Phước). Có người khẳng định đây là nhân vật lịch sử có thật, một liệt nữ hiếm hoi trong phong trào Đông du; nhưng cũng có người hoài nghi, bởi tư liệu về bà Hoàng Thị Tòng lâu nay chủ yếu do dòng họ cung cấp, mà không thấy các nguồn có tính chính sử khác (cùng thời) nói đến. Báo Quảng Nam giới thiệu bài viết của Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học lịch sử TP.Đà Nẵng - Lưu Anh Rô góp thêm những tư liệu lịch sử liên quan đến nhân vật Hoàng Thị Tòng.

Bài viết này, chúng tôi xin lần lượt giở lại toàn bộ hồ sơ “Hoàng Thị Tòng - nữ anh hùng Việt Nam cận đại” của chính quyền Sài Gòn, hiện lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, TP.Hồ Chí Minh.

Cổ thư hay ngụy thư?

Vào ngày 10.3.1971, ông Hoàng Đình Long (cháu bà Hoàng Thị Tòng) có đơn gửi Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa của chính quyền Sài Gòn đề xuất cơ quan này xem xét, xuất bản sách “Việt Nam chống xâm lăng sử mà là dật sử cô Hoàng Thị Tòng, biệt hiệu Tùng Thoại, nữ anh hùng Việt Nam cận đại” (Phiếu trình số 147-QVK/VH/NVH/VP ngày 6.4.1971 của Quốc vụ khanh, chính quyền Việt Nam cộng hòa). Theo ông Hoàng Đình Long thì thông tin về bà Tòng, nhất là bộ “dật sử” là do hai vị tú tài Hán học xưa soạn thảo bằng chữ Hán, chữ Nôm và chữ Pháp, đóng thành ba quyển, cộng 1.706 trang cỡ nhỏ, rồi ông Long phiên dịch ra Quốc văn, đóng làm 12 tập, cộng 646 trang đánh máy.

Sau khi tiếp cận bộ dật sử, vài ý kiến ban đầu của Nha Văn hóa cho rằng đây là một tài liệu giả mạo, riêng ông Võ Long Tê trong công văn đề ngày 14.4.1971, cho rằng: “Về hình thức, nguyên tác là một thủ bản xưa cũ, không thể là một tác phẩm ngụy tạo. Phương chi đất Quảng Nam vốn là nơi phát xuất phong trào Duy tân đầu thế kỷ XX, cô Hoàng Thị Tòng ắt là một nhân vật có thật”. Từ nhận định đó, ông Tê đề nghị: “Phủ Quốc vụ khanh nên mua tác quyền nguyên tác và bản dịch. Thành lập một hội đồng để duyệt lại bản dịch và sẽ cho xuất bản trong khuôn khổ tủ sách cổ văn của Ủy ban Dịch thuật” (Công văn đề ngày 14.4.1971, của Nha Văn hóa, do ông Võ Long Tê ký). Trước đề nghị của ông Tê, bút phê của ông Quốc vụ khanh tại văn bản này kết luận, cần phải: “Dò lại coi có đúng với nguyên bản không, hiệu đính chữ Quốc ngữ (viết sai chính tả, dấu không chính xác), sửa đổi cách trình bày, bỏ các phần chữ Tây (lỗi thời quá) mà để phần chữ Việt (phần dịch) thôi. Cần trao đổi với ông Hoàng Đình Long về vấn đề này” (Công văn đề ngày 14.4.1971, của Nha Văn hóa, do ông Võ Long Tê ký).

Dật sử đáng giá triệu đồng?

Tại Phiếu trình ngày 15.5.1971 của Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa gửi Phủ Quốc vụ khanh trình bày về việc mua bản quyền bộ dật sử để xuất bản thì: “Trong thư đề ngày 6.5.1971 gửi Phủ, ông Long cho biết: Cuốn này là bửu vật của dòng họ ông, lại thêm tốn công dịch thuật mà nhượng tác quyền cho Phủ thì xem như ông chỉ được hưởng có một lần thôi. Do đó, ông ra hiệu giá một triệu đồng. Có lẽ cho ông không ước lượng được mức giá trị của cuốn sách cũ này đến đâu, nên đã hiệu giá quá cao ngoài khả năng mua được của Phủ. Thật ra, với 12 tập đánh máy bản dịch 650 trang, nếu tính theo giá biểu của Ủy ban Dịch thuật thì giá toàn bộ sẽ là 195.000$00. Nhất là, bản dịch này còn nhiều khuyết điểm cần phải hiệu chỉnh, lại đặt ra cho Phủ một mục chi phí ít ra cũng phải bằng phân nửa tiền mua bản dịch. Nên “Phủ chỉ có thể mua với số tiền 200.000$ cả nguyên tác và bản dịch”. Nếu ông Long không thuận thì xin hoàn nguyên giao để ông tùy nghi” (Phiếu trình ngày 15.5.1971, của Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa).

Đến ngày 26.11.1971, ông Hoàng Đình Hoằng (cháu ông Hoàng Đình Long, ở số nhà 58 Phan Đình Phùng, Đà Nẵng), có thư gửi cho Quốc vụ khanh nêu rõ: “Về việc bác chúng tôi là ông Hoàng Đình Long, hiến dật sử bà chúng tôi, là bà Hoàng Thị Tòng. Gần đây, tôi có mượn 12 bản dịch dật sử Hán văn ra Quốc ngữ xem, đồng thời đọc lại cho bà con nghe, thì bà nội tôi (bà Nguyễn Thị Thơm, gọi bà Tùng Thoại bằng chị chồng, nhỏ hơn bà Tùng Thoại 4 tuổi), có kể rằng, sanh tiền ông cố tôi hay kể: Khi bà Tùng Thoại qua Quảng Đông đem Chương trình Hội Duy tân cứu quốc về, thì cụ Tán Thuật (tức Hà Đình Nguyễn Thuật), có khen tặng bà một bài thơ (bài thơ này tôi thấy trong dật sử của bà Tùng Thoại đã có chép), đồng thời cụ Thuật có gửi bài ca Á Tế Á do cụ sáng tác, bảo bà đem về phổ biến trong nước. Khi bà Tùng Thoại ở nước ngoài về, ông cố của tôi đến thăm, thấy có tấm ảnh chụp khi bà đương diễn thuyết tại nước Đức, ông cố xin đem về cất kỹ (tôi sang gửi kèm theo đây). Ngày bà tạ thế thì 3 cụ: Cử Lịch, Tú Phát, Cai Thức họp tại nhà ông cố, để đặt bài văn truy điệu bà. Khi đó ông cố lấy bản thảo cất kỹ, còn bản chính đọc xong trong lễ truy điệu thì đốt liền khi đó tại Thạnh Bình (chúng tôi nhấn mạnh - NV). Chúng tôi mong Chánh phủ sớm xuất bản sử bà chúng tôi, rồi gởi cho bác chúng tôi một ít sử, để cho lại mỗi gia đình con cháu chúng tôi một quyển” (Thư của ông Hoàng Đình Hoằng gửi Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa. Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, TP.Hồ Chí Minh).

Hàng loạt những vấn đề đáng ngờ! 

Từ đề xuất trên, sau khi thống nhất với gia đình ông Hoàng Đình Long, Nha Văn hóa bắt tay vào nghiên cứu kỹ hơn bộ dật sử thì phát hiện hàng loạt những vấn đề đáng ngờ. Theo Nha Văn hóa thì: “Cô Hoàng Thị Tòng, biệt hiệu Tùng Thoại chưa chắc đã là bạn đồng chí của cụ Phan Bội Châu vì: 1. Chưa có sách nào nói đến cô Hoàng Thị Tòng. 2. Các ông Nguyễn Thị Dực và Nguyễn Văn Bồng có lập danh sách các liệt nữ đã từng hoạt động với cụ Phan Bội Châu nhưng không biết đến cô Hoàng Thị Tòng. 3. Nếu sách “Phan Bội Châu tự phán” có nói đến cô Thiếu Lâm Quảng Đông thì cũng cần phải chứng minh đó là một biệt danh của cô Hoàng Thị Tòng”.

Trước tình hình đó, Phủ Quốc vụ khanh thành lập một Hội đồng thẩm duyệt toàn bộ cuốn dật sử này, với nhiều chuyên gia Hán Nôm giỏi nhất của họ lúc đó, trong đó có ông Nguyễn Đình Diệm. Căn cứ vào ý kiến trên của Hội đồng thẩm xét, tại Phiếu trình số 210-QVK/VH/NVH/PB/AP do ông Tán Văn Hỷ ký, trình Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa Sài Gòn, về việc “duyệt chính bản dịch cuốn “Việt Nam chống xâm lăng sử mà là dật sử của cô Hoàng Thị Tòng” cho biết quá trình duyệt xét cũng như kết luận cuối cùng về cuốn sách như sau: 1. Duyệt tập 1 đến 6, xong vào ngày 25.2.1973. 2. Duyệt tập 7 đến 12, xong vào ngày 4.3.1973. Theo chúng tôi, ông Ngô Văn Minh (PGS-TS. Ngô Văn Minh - BTV)hoàn toàn có lý khi cho rằng “với một người hoạt động chính trị như bà Tòng thì sao lại có thể ghi tất cả những điều cơ yếu của tổ chức mình vào trong nhật ký?”. Đặc biệt, tại sao bộ dật sử cho rằng bà thường xuyên liên lạc với hai cụ Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng (cùng phủ Thăng Bình, sau là phủ Tam Kỳ), riêng cụ Huỳnh lại cùng quê làng Thạnh Bình với chồng của bà Tòng, cùng ngồi tù với bà ở Côn Đảo nhưng trong các trước tác của mình cụ Huỳnh lại không hề nhắc đến tên bà?

“Là sản phẩm của văn sĩ Quảng Nam!”

Sau khi thẩm duyệt một cách cẩn thận bộ dật sử, dịch giả nổi tiếng Tô Nam Nguyễn Đình Diệm - thuyết trình viên của Hội đồng thẩm định, đưa ra các ý kiến của Hội đồng này như sau:

Về sự nghiệp của cô Tòng thì: “Cứ như những lời thuật lại thì cô Tòng là một nhân vật quan trọng nhất trong các phong trào chống Pháp, như vụ chống thuế, Duy tân, Đông du, Đông Kinh Nghĩa thục, và sang Tàu, Nhật sang Đức để vận động, thế mà tại sao những cuốn “Cách mạng sử” không thấy nhắc đến tên tuổi? Trong truyện nói, khi 14 - 15 tuổi, cô còn học chữ Hán của ông đồ nhà quê, mà 18 tuổi đã đỗ bằng Primaire ở Quảng Nam, rồi vừa tham gia cách mạng vừa học chữ Pháp, chữ La Tinh, chữ Anh ở đấy. Thử hỏi, lúc ấy ở tỉnh Quảng Nam làm gì đã có trường dạy ngoại ngữ, để cô vừa đi hoạt động vừa học trong vòng 1 - 2 năm mà thông thạo được nhiều thứ tiếng như vậy? Về điểm này, hình như tác giả dật sử nhận thấy mình đã đề cao cô Tư một cách quá xa thực tế, nên đòi đem thân hình cô cao lớn, cân nặng 65 ký lô, để chứng minh sự thông tuệ tột bậc. Nhưng sự học phải có phương tiện, có thời gian 2 - 3 chục năm để đi du học, chứ 65 ký lô kia có thể bảo đảm cho sự thông thạo 7 thứ chữ trong thời gian tối thiểu”. Ông Diệm cũng hồ nghi: “Quyển 10 nói cô bị tù ở Côn Đảo hơn hai (2) năm, đến ngày 20.2.1910 cô được trả tự do, khi ấy mới 25 tuổi. Về tới nhà, cô lập tức sang Nhật, rồi xin được phép mở trường dạy người Nhật học tiếng Việt, dù cô không biết tiếng Nhật. Tác giả quên rằng: Xin phép mở trường ở nước nhà cũng còn khó khăn, huống chi cho một người con gái vừa mới chân ướt chân ráo bước tới nước ngoài, mà được phép mở ngay như vậy?”.

Về nội dung của cuốn dật sử, theo ông Diệm thì: “Ông Hoàng Đình Long nói: Cuốn chữ Nôm do hai (2) vị tú tài Hán học xưa soạn thuật, rồi ông dịch ra Quốc ngữ. Nhưng cả ba quyển chữ Nôm viết sai quá nhiều, tờ nào cũng bị bôi lọ lem, không thể đọc hết được, thế mà ông ấy phiên dịch được, thì đủ biết cuốn truyện này do nhà tiểu thuyết nào soạn bằng Quốc ngữ, rồi sau mới phiên ra chữ Nôm và bôi lọ lem để ngụy tạo ra như cổ thư. Chỉ thấy ghi đầy những thi ca, với những cuộc hội họp và ghi danh, tỉnh, quê quán các hội viên, còn việc làm của cô Tư thì ít có thực tế. Có thể ngờ rằng: Cô Tư cũng là người có tham gia các phong trào cách mạng hồi đó và cũng có theo các vị cách mạng tiền bối như cụ Phan Sào Nam, cụ Cường Để... sang Tàu, sang Nhật với các cụ, mà tác giả muốn làm nổi bật vai trò của cô nên đã thần thánh hóa các sự việc, và còn soạn ra những văn thơ để ca ngợi cô song văn phong thì quá tầm thường và quê kịch mà lại cho là lời của các cụ khen ngợi cô Tòng. Ví như bài thơ đề ở đầu quyển 1, bảo là của cụ Phan Bội Châu tặng cô Tòng. Câu thứ nhất: “Tư Tùng Đệ nhất nữ anh hùng” thì câu thứ hai: “Sáng trí cao tài giúp cứu dân”, câu thứ tư “Cõi trời Âu”; câu thứ sáu: “Giống Lạc Hồng” cho thấy thơ chẳng ra thơ, mà lại xuất vận như vậy mà bảo là thơ của cụ Phan Bội Châu thì ai tin được?”. Từ những nhận định đó, Hội đồng đi đến kết luận rằng: “Cuốn Dật sử này sẽ làm giảm giá trị sự nghiệp cách mạng các bậc tiền bối, không nên xuất bản” (Bản thuyết trình của ông Tô Nam Nguyễn Đình Diệm - đại diện Hội đồng thẩm xét Dật sử Hoàng Thị Tòng, đề ngày 30 tháng 12 năm 1972, tại Sài Gòn. Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, TP.Hồ Chí Minh). “Sau khi thảo luận toàn thể, Hội đồng quyết định không nên in tài liệu này” (Phiếu trình số 210-QVK/VH/NVH/PB/AP về Dật sử bà Hoàng Thị Tòng, do ông Tán Văn Hỷ ký. Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, TP.Hồ Chí Minh).

Qua hồ sơ này, chúng ta có thể thấy rằng, bộ dật sử mà ông Hoàng Đình Long gửi cho Nha Văn hóa không hề là bản gốc chữ Hán; lại không có cơ sở để khẳng định rằng Hoàng Thị Tòng là một trong “hai người phụ nữ tham gia phong trào Duy tân, Đông du và sau này là Việt Nam Quang phục Hội” như ông Tôn Thất Hướng đã nói. Tưởng cũng nói thêm rằng, trong một văn bản trong hồ sơ này, chúng tôi thấy người nào đó đã dùng bút mực, viết thẳng một câu rằng: “Đây là sản phẩm của bọn văn sĩ Quảng Nam!” có lẽ là đúng chăng?

                                                 Lưu Anh Rô - Báo Quảng Nam

* Về bộ dật sử Hoàng Thị Tòng