www.donghuongtienphuoc.com - Đồng hương Tiên Phước - Quê hương là của chúng tôi nhưng cảm nhận là của bạn

Tư tưởng dân chủ Phan Châu Trinh và bài học lịch sử với nước ta hiện nay

   Phan Châu Trinh (1872 - 1926) không chỉ là nhà văn hóa lớn mà còn là một trong những nhà Dân chủ đầu tiên của nước ta giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tư tưởng Dân chủ của Phan Châu Trinh với  những quan niệm về dân chủ, về xác định vai trò của người dân trong phong trào chấn hưng đất nước... đã làm thức tỉnh dân tộc ta trong giai đoạn này, góp phần quan trọng trong việc tạo nên những chuyển biến tích cực của xã hội ta lúc bấy giờ. Bài viết đi vào phân tích những nội dung, đặc điểm, ý nghĩa cơ bản của tư tưởng Dân chủ của Phan Châu, từ đó rút ra ý nghĩa lịch sử và những bài học cần thiết cho ngày hôm nay.

             1. ĐẶT VẤN ĐỀ 

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tương ứng với điều kiện hoàn cảnh mới, nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc cũng mang tính chất khác trước. Cắt nghĩa thực tiễn, một bộ phận nhà Nho tiến bộ, trong đó có Phan Châu Trinh đã “khai phá” những phương pháp khả dĩ cứu nước, cứu dân theo những khuynh hướng khác nhau. Một trong những khuynh hướng nổi bật trong giai đoạn này đó là các nhà trí thức khởi xướng phong trào Duy tân. Hoạt động cơ bản của phong trào là nhằm cổ vũ ý thức tự cường dân tộc, thúc đẩy những cải cách văn hóa và xã hội trước hết là cải cách giáo dục và thi cử. Trọng tâm của phong trào đặt vào sự đổi mới đầu óc của mọi người, đổi mới tri thức, từ bỏ cái học cũ và những tri thức lỗi thời cổ xưa để hướng tới nền học vấn Âu Tây trong khoa học kỹ thuật. Phan Châu Trinh là một trong những nhân vật tiêu biểu cho phong trào này đã đề cao nâng cao dân trí, dân khí và kêu gọi các tầng lớp nhân dân cải cách phong tục hăng hái tham gia vào những hoạt động kinh doanh nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.

               Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp xâm lược và biến nước ta thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Chế độ phong kiến Việt Nam cùng với hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc chống ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, Phan Châu Trinh là nhân vật tích cực của phong trào đổi mới và cải cách. Ông đề xướng cải cách hệ thống chính trị với tất cả tính nghiêm trọng và cấp bách của vấn đề này. Ông đả kích hệ thống quan lại mục nát, tham nhũng, hủ lậu và bất lực. Ông nêu ra vấn đề chức trách, phẩm giá và cơ chế hoạt động của cả tập đoàn quan liêu từ triều đình đến những tên nha lại hào lý hằng ngày sách nhiễu đè nén những người dân lương thiện. Nhưng ông không dừng lại ở sự phê phán tầng lớp quan liêu hào lý mà còn phê phán cả quyền chuyên chế của nhà vua, nhất là "tám mươi năm trở lại đây, vua thì dốt nát ở trên, bầy tôi thì nịnh hót ở dưới; hình pháp dữ dội, luật lệ rối loạn, làm cho dân không còn biết sống theo cách nào".  

Ông còn chỉ rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đồi bại của bộ máy quan liêu là sự "dung túng của chính phủ Bảo hộ". Duy ở đây có điều là ông không thấy chính sách sử dụng bộ máy quan liêu sâu mọt như vậy để nô dịch nhân dân là bản chất của thực dân Pháp. Vì thế ông đã cố gắng thuyết phục chính phủ Bảo hộ thay đổi chính sách và tiếp thu những đề nghị của ông về cải cách hệ thống quan lại và mở rộng dân chủ cho nhân dân. Nhưng sự thuyết phục đó không thể thành công. Khi đề xuất những yêu cầu cải cách chính trị đối với xã hội Việt Nam lúc đương thời, Phan Châu Trinh đã nêu ra tư tưởng dân chủ như một định hướng cho cuộc cải cách này. Có thể nói rằng, từ sự phê phán hệ tư tưởng phong kiến, Phan Châu Trinh đã đề xuất tư tưởng canh tân vào cuối thế kỷ XIX và sau đó, khởi xướng tư tưởng dân chủ tư sản vào đầu thế kỷ XX, điều này tạo nên “dấu ấn” lớn đối với xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, góp phần chuyển tiếp hình thành nên khâu trung gian để chuyển từ hệ tư tưởng phong kiến sang hệ tư tưởng vô sản.  

Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh được thể hiện thông qua con đường là nâng cao dân quyền, là xây dựng thể chế chính trị và hệ thống pháp luật để bảo đảm cho dân quyền mà Cụ Phan là người khởi xướng cho đến nay ngẫm lại, vẫn còn nguyên giá trị. 

2. NỘI DUNG 

2.1. Những quan niệm chung về dân chủ của Phan Châu Trinh 

Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh khá đa dạng, phức tạp và có nét đặc sắc riêng. Ông tiếp thu đồng thời luồng tư tưởng dân chủ sơ khai, tính tự do ngôn luận của Nho giáo thời Xuân Thu – Chiến Quốc, lẫn tư tưởng dân chủ tư sản, mà chưa nhận thức được tính giai cấp của mỗi hệ tư tưởng dẫn đến việc khẳng định nền dân chủ tư sản Tây phương ngày nay chính là đạo Khổng Mạnh Đông phương ngày trước. Phan Châu Trinh cho rằng, nếu bây giờ chúng ta muốn đi tìm lại đạo Khổng Mạnh thì phải ở văn minh Âu châu chứ không phải ở đâu khác. Điều này thể hiện Phan Châu Trinh không chấp nhận những mặt lạc hậu của nền giáo dục Nho giáo truyền thống đương thời, kiên quyết phê phán độc tôn Tống Nho, phê phán những đạo lý cương thường đã bóp nghẹt mọi sáng tạo của tư tưởng và quay về phục hồi cái gốc của Nho giáo trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Phan Châu Trinh cố gắng kết nối những tư tưởng dân chủ của những thời đại, những giai tầng khác nhau lại cũng nhằm mục đích cứu nước, cứu dân, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế lúc bấy giờ. Vì vậy, tuy có những hạn chế nhất định, nhưng tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh mang đậm tính nhân văn, nhân đạo. 

Quan niệm về dân chủ và chủ nghĩa dân chủ được Phan Châu Trinh trình bày trong bài diễn thuyết Quân trị chủ nghĩa (tức nhân trị chủ nghĩa) và dân trị chủ nghĩa (tức là pháp trị chủ nghĩa), một trong hai bài viết cuối cùng của ông, đồng thời cũng là một trong hai bài viết được ông phát biểu chính thức với quốc dân đồng bào sau mười bốn năm lăn lộn trên đất Pháp. Qua bài diễn thuyết, Phan Châu Trinh muốn giải thích cho mọi người hiểu rõ thế nào là chủ nghĩa quân chủ, chủ nghĩa dân chủ, cũng như lợi hại của mỗi chủ nghĩa. 

Tuy được gọi là người đề xướng tư tưởng dân quyền sớm nhất nước ta, nhưng đối với vấn đề này, thật ra Phan Châu Trinh chưa có dịp để trình bày một cách thấu đáo, sâu sắc. Chính tác giả cũng đã nói đến chỗ hạn chế trong ấy trong phần đầu bài diễn thuyết của mình: “cái đề mục đó thật là lớn lao quá, không phải sức tôi có thể giải thuyết ra cho minh bạch được. Muốn giải thuyết ra cho minh bạch, thì phải tính về Âu Á lịch sử chính trị học và chính trị triết học mới có thể nói ra cho tinh tường được. Các anh em cô bác có lạ gì tôi, cái học về đường lịch sử Tàu thì tôi cũng hiểu được chút đỉnh, còn về đường Tây học thì thực là kém lắm”. 

Trong phần nói về dân chủ, Phan Châu Trinh trình bày ba nội dung: tình hình dân trí nước ta đối với vấn đề quân chủ, dân chủ; lược sử chế độ dân chủ; và thế nào là chính thể dân chủ. Ở nội dung thứ nhất, đánh giá tình hình dân trí nước ta đối với vấn đề quân chủ, dân chủ, Phan Châu Trinh đã so sánh trong khi các nước bên Âu châu, nước nào cũng có đảng dân chủ ở trong thượng, hạ nghị viện cả, duy nước ta, ngay những người có ăn học thì cái chữ “republique” (cộng hòa) luôn ở trên miệng, nhưng không hiểu nghĩa lý ra thế nào huống chi người dân quê, đã không biết dân chủ là gì đối với vua thì thờ ơ như thần thánh. Từ đó ông phân tích rằng, vì cái độc quân chủ dân chỉ biết vua mà không biết nước nên phải “đem cái tụi bù nhìn ở Huế đó vứt hết cả đi”. Trong phần lược sử chế độ dân chủ, Phan Châu Trinh đã nêu lên một cách khái quát hai hình thức dân chủ trong lịch sử, đó là nền dân chủ chủ nô thời Hy Lạp cổ đại và dân chủ tư sản Anh quốc. Ở đây, ông chưa phân tích bản chất, đặc tính và những nguyên tắc  của từng hình thức dân chủ đó, mà chỉ mới giới thiệu về sự tồn tại những “cái hội” mà “phàm những luật vua quí tộc đã đặt ra thì phải giao hội ấy xem xét, có bằng lòng thì mới được làm”. 

Để trình bày một chính thể dân chủ, trước hết Phan Châu Trinh đi vào giới thiệu về cách bầu Hạ nghị viện, Nguyên lão viện, Tổng thống và “chánh phủ”, rồi quyền của “chánh phủ” có hạn định, tất cả “đều chịu theo pháp luật như nhau” dưới quyền “xử đoán” của Viện tư pháp. Viện tư pháp cùng hai viện kia “có quyền độc lập như nhau. Đó là theo cái lẽ ba quyền… đều riêng ra, không hiệp lại trong tay một người nào” và ông tóm lại “dân trị tức là pháp trị”. 

Như vậy, tuy phần nói về dân chủ trong bài diễn thuyết không có gì là mới lạ, lại có nhiều thiếu sót vì chỉ giới thiệu một trong mấy thể chế của chủ nghĩa dân chủ tư sản, lại không phê phán những nhược điểm của nền dân chủ ấy, nhưng Phan Châu Trinh là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam bàn về vấn đề dân chủ và chủ nghĩa dân chủ, giới thiệu cho một bộ phận tri thức nước nhà sự tiến bộ tư tưởng ở Âu châu, trong đó ông đã cho mọi người thấy sự cần thiết của một nhà nước cai trị bằng pháp luật. 

2.2. Xác định vai trò của người dân trong phong trào chấn hưng đất nước – nét đặc sắc trong tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh 

So với các nhà tư tưởng canh tân, Phan Châu Trinh tiến bộ hơn, ông đã nhìn thấy được vai trò của người dân trong phong trào chấn hưng đất nước. Vì vây, một trong những nội dung quan trọng nhất của tư tưởng dân chủ Phan Châu Trinh là: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Có thể nói rằng, đây là cống hiến xuất sắc của Phan Châu Trinh trong quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị của dân tộc. Có thể thấy, trong tư tưởng và hành động của Phan Châu Trinh bao giờ cũng hướng đến nhân dân. 

Theo Phan Châu Trinh, khai dân trí của Phan Châu Trinh là: một mặt, chống lối học tầm chương trích cú cũng như khoa cử Nho giáo, nay mạnh truyền bá quốc ngữ, mở trường dạy học những kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa và qua văn thơ báo chí, tuyên truyền… phổ biến trong đại chúng tư tưởng tư sản dân chủ. Muốn khai thông dân trí, giành độc lập cho dân tộc, ông chủ trương cải cách bằng việc mở các trường học, đem thực tài mà giảng dạy, dùng các hình thức thơ ca, sách vở, báo chí diễn thuyết để mở mang trí khôn và thức tỉnh lòng người.

Về mặt nhân sinh, Phan Châu Trinh cho rằng hạnh phúc của con người là sự thắng được người khác, thống khổ nhất là thua người khác, do đó phải có tư tưởng cạnh tranh. Đối với những người ra đảm đương việc nước thì phải chịu khổ và liều mạng. Ông lên án gắt gao những người xướng nghĩa tôn quân và không biết đến nghĩa ái quốc. Về mặt xã hội, ông nghiêm khắc chỉ trích chủ nghĩa gia đình và những phong tục cổ hủ. Ông cho rằng chủ nghĩa gia đình là cái động lực ngăn trở sự tiến hóa, bao nhiêu thói hư tật xấu là do trong gia đình mà ra, vì thế muốn chấn chỉnh xã hội thì trước hết phải phá bỏ mọi sự ràng buộc con người bởi những quyền uy của gia trưởng. Đường lối ấy đượm mùi của chủ nghĩa cá nhân tư sản, nhưng đồng thời cũng xuất phát từ quan điểm “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của học thuyết Nho giáo.

Vốn là người nổi tiếng thông minh, ông muốn dùng tài trí của mình để cứu vớt giang sơn đang chìm đắm trong cảnh nô lệ. Nhưng sau khi được bổ nhiệm làm quan, ông thấy rằng, việc khoa cử cũng chỉ là kiếm chức quan nhằm “vinh thân phì gia” mà thôi, chứ không thể thực hiện được mục đích. Đối với chế độ phong kiến, sau khi trực tiếp nhìn nhận, Phan Châu Trinh kiệt liệt lên án sự thối nát, mục ruỗng, nhu nhược, quyền lực chính trị rơi vào thực dân Pháp, bộ máy của chế độ phong kiến là bù nhìn, ông ví như quân trên bàn cờ tường:

“Một ông tướng lác đứng trong cung,

Sĩ tượng khoanh tay chẳng vẫy vùng”

Trong lúc đó thì xã hội Việt Nam rên xiết dưới sự bạo tàn của thực dân, phải cam chịu nô lệ, bộ phận Nho sỹ vẫn chìm đắm trong hư văn, chưa kịp chuyển biến theo thời thế. Phan Châu Trinh nhận ra rằng, chính tình cảnh ấy sẽ làm cho đất nước nhanh chóng đi vào con đường suy tàn. Chí hướng Phan Châu Trinh là không muốn “cam hóa mã” mà muốn “xuất lao lung” nghĩa là muốn đuổi giặc ngoại xâm mà giải phóng dân tộc. Điều đó là cái ý nguyện chung cho tất cả nhân dân lúc bấy giờ và đặc biệt là của những người có học, là hạng người thống trị về tư tưởng lúc đó. Còn nền giáo dục Nho học, tư tưởng “trọng xưa, hơn nay”, “trọng quan, khinh dân”, coi trọng văn chương phù phiếm mà coi nhẹ lao động chân tay đã tạo ra không ít những con người thích phẩm hàm, quan tước để mong một chốn nương thân trong chế độ thực dân phong kiến thối nát. Đến lúc mất nước, chế độ phong kiến và nền khoa cử ấy vẫn mặc nhiên không kịp thay đổi cách nhìn để cứu dân tộc khỏi cảnh nô lệ. Kiến thức Nho học không còn phù hợp, không có khả năng lý giải những hiện tượng mới nảy sinh của đời sống xã hội.

Mặt khác, phải nâng cao quyền dân, dân đã có quyền, lúc đó mới có thể làm việc lớn được. Nhưng hiện nay quyền bính trong nước là còn nợ vua quan. Mà vua quan là đồ thối nát không thể làm gì được. Thế thì phải đánh đổ vua quan đi. Nhưng làm thế nào để đánh đổ vua quan? Vì hoàn cảnh nước ta là không thể tự làm được cho nên phải dựa vào bọn Pháp là bọn thống trị vua quan ta, mà làm việc cải cách ấy. Đã muốn dựa vào Pháp thì không cổ động đánh Pháp. Bên cạnh đó còn phải bài trừ tư tưởng Tống Nho, nay mạnh cải cách phong tục tập quán, bài trừ mê tín dị đoan, cải thiện lối sống (Cắt tóc ngắn, cải cách tục lệ ma chay, cưới xin) xây dựng thuần phong mỹ tục. Công việc này được tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt mở những trường dạy học làm cách tuyên truyền hữu hiệu nhất. Chính vì thế, mà hàng loạt những ngôi trường lớn mở ra từ Nam chí Bắc. Nội dung học gồm những môn lịch sử, địa lý, vệ sinh và tất cả đều dạy bằng chữ quốc ngữ, đôi khi có kèm theo tiếng Pháp. Trường còn tổ chức biên soạn, dịch thuật một số sách báo thấm đượm tinh thần duy tân.

Ngoài việc giảng dạy là chính trường còn tổ chức những buổi diễn thuyết, bình thơ văn, cổ động học chữ quốc ngữ, lập ra các “Hội bun” gọi là “Quốc thương” để kiếm tiềm nuôi thầy giáo mở thêm trường học, cung cấp sách vở cho học sinh. Sau một thời gian ngắn, nhiều trường học, cơ sở văn hóa đã tổ chức rải rác ở khắp các vùng quê tỉnh Quảng Nam, nhằm tạo ra một mẫu người toàn vẹn vời bộ óc sáng suốt trong một thân thể tráng kiệt. Một số trường học nổi bật được hình thành trong thời kỳ này như trường Dục Thanh (Phan Thiết), do các cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng. Nhà yêu nước Nguyễn Tất Thành cũng đã có thời gian giảng dạy ở trường này. Chỉ trong năm 1906, riêng tỉnh Quảng Nam đã có tới 40 trường lớn nhỏ được thành lập. Đặc biệt, trường Diên Phong là tiêu biểu nhất về tổ chức cũng như về nội dung giảng dạy trong phong trào Duy Tân, cải cách ở vùng đất Quảng. Bên cạnh đó là trường Phú Lâm, thuộc huyện Tiên Phước. Trường do ông Lê Cơ là bà con của Phan Châu Trinh chỉ đạo. Trong trường có lớp riêng của nữ sinh. Ông đã đào tạo hai cô giáo phụ trách lớp này. Đó là lớp nữ đầu tiên ở khu vực này, một việc làm rất có ý nghĩa trong phong trào cải cách, tân tiến. Ngoài việc mở trường học, thì quan trọng nhất của phong trào là đổi mới nội dung giảng dạy.

Khác với những nhà cách mạng khác, ông Phan Châu Trinh đã nhận thức được nguyên nhân căn bản tại sao Việt Nam bị thực dân xâm lược. Đó là do dân tộc chúng ta đã tụt hậu về mặt tri thức so với các dân tộc khác hàng thế kỷ, hay nói cách khác, Việt Nam đã đi sau các dân tộc phương Tây khác một thời đại: Khi Việt Nam còn ở nền kinh tế nông nghiệp thì các nước phương Tây đã làm kinh tế công nghiệp và đang tiến nhanh lên kinh tế tri thức.

Châu Trinh nhận ra rằng công cuộc toàn cầu hóa lần thứ nhất đang làm rung chuyển dữ dội thế giới, thế nhưng người dân Việt Nam vẫn ở trong ốc đảo và hoàn toàn mù thông tin về thế giới xung quanh, chúng ta thua là điều tất yếu. Muốn cứu dân tộc, không còn con đường nào khác là phải đuổi kịp về mặt tri thức đối với các dân tộc khác, đưa dân tộc lên ngang tầm thời đại với các dân tộc khác. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể cùng sinh tồn và cạnh tranh với họ.

Phan Châu Trinh đã thấy được rất xa là phát triển dân tộc quan trọng không kém độc lập dân tộc. Nếu có độc lập dân tộc mà người dân bị bưng bít thông tin, ngu muội so với các dân tộc khác thì sớm hay muộn, chúng ta sẽ lại bị phụ thuộc hoàn toàn vào ngoại bang. Từ quan điểm đó, Phan Châu Trinh  đã cùng với hai người bạn tâm huyết nhất của mình là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng, còn được gọi là “bộ ba Quảng Nam” phát động phong trào Duy tân vào năm 1906. Cả ba ông đã đi khắp mọi miền đất nước, mở trường dạy những môn khoa học mới của phương Tây. Đến đâu các ông cũng gióng trống mời gọi người dân trong làng ra nghe những tư tưởng mới, những giá trị mới của phương Tây. Phong trào nhanh chóng lan rộng từ Trung Kỳ ra cả nước. Và chỉ hai năm sau, sự kiện “Trung Kỳ biến” long trời nổ đất đã nổ ra, chấn động tớ tận nước Pháp. Nhìn lại phong trào Duy tân, chúng ta thấy đây là một cuộc khai hóa tư tưởng thuần túy để nâng cao nhận thức người dân chứ không phải là một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Mục đích của phong trào là truyền bá cho người dân Việt Nam những kiến thức và tư tưởng mới, giúp người dân ý thức được công cuộc toàn cầu hóa đang diễn ra và mình phải vươn tới để hòa nhập vào thế giới ấy.

Phong trào Duy Tân chủ trương chấn hưng cổ học, tăng cường việc học thực nghiệm, nhất là đề cao chữ quốc ngữ.

“Chữ quốc ngữ là hồn trong nước

Phải đem ra tỉnh trước dân ta

Sách Âu Mỹ, sách China

Chữ kia chữ nọ dịch ra tỏ tường”.

Mọi người, mọi giới phải học, học mọi nền văn minh của các dân tộc khác. Được như vậy thì xã hội mới tiến bộ và có quyền sống ngang nhau. Chủ trương của hội thật mới và cách mạng. Vì vậy khi chủ trương triển khai và vận dụng vào việc học, chỉ sau một thời gian thì đã có kết quả như ý. Đó là cách học có tính thực dụng, hướng nghiệp nó không chỉ có ý nghĩa lúc đó mà còn có ý nghĩa đến tận sau này.

Để mở mang dân trí, phải tiến hành học thực dụng cốt để phục vụ cuộc sống dân sinh chứ không phải là học thơ văn, phù phiếm của người xưa. Bản thân Phan Châu Trinh là người rất ham học hỏi và biết nhiều nghề, đi đến đâu ông đều kêu gọi mọi người phát triển hội nghề nghiệp nhằm phát triển kinh tế. Còn học thuật, ông quan niệm cần phải đổi mới về nội dung, phương pháp, đặc biệt là chú trọng phát triển khoa học, kỹ thuật. Ông viết:

“Ước học hành mở cho xứng đáng,

Đừng vẽ hình vẽ dạng cho qua;

Công thương, kỹ nghệ chuyên khoa,

Trí tri, cách vật cho ta theo cùng”.

Đối với nền văn minh phương Tây, ông rất ngưỡng mộ, theo ông cần phải học hỏi cái hay, biết cái dở của họ để vận dụng vào phát triển và mở mang dân trí. Đây cũng là một trong những tư tưởng rất tiến bộ, ông cũng giống như Nguyễn Trường Tộ đã nhận thấy những giá trị văn minh của phương Tây, đi ngược lại tư duy truyền thống “trọng Đông, khinh Tây”. Ông viết:”…đem cái sự học Âu tây để so sánh lại với cái học cũ của ta, để xem điều gì hay, điều gì dở, cho người ta xét đoán mà tìm lấy đàng tấn tới về sau ”. Trong bối cảnh đất nước bế tắc về con đường cách mạng, Phan Châu Trinh không như một số Nhà nho thanh liêm về quê ở ẩn mà ông luôn trăn trở đi tìm con đường cách mạng cho dân tộc. Tư tưởng khai dân trí thực sự làm cho dân tộc thay đổi tư duy cũ kỹ để vươn lên tầm nhận thức mới cao hơn, phù hợp hơn với sự phát triển của thời đại.

Những việc làm trên đã khiến cho xã hội Việt Nam mang một khuôn mặt mới, một dòng suy nghĩ mới. Ở đâu người ta cũng nghe nói đến tân thơ, tân học, hội nông, hội thương, cắt tóc, âu trang… và đặc biệt là văn học, giáo dục, bước sang một ngã rẽ tràn đầy sinh khí. Do vậy, tư tưởng khai dân trí thực sự làm cho dân tộc thay đổi tư duy cũ kỹ để vươn lên tầm nhận thức mới cao hơn, phù hợp với sự phát triển của thời đại.

Cùng với khai dân trí, Phan Châu Trinh còn chủ trương chấn dân khí tức là làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, giác ngộ được quyền lợi của mình giải thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ quân chủ chuyên chế. Sự trì trệ, suy vong của dân tộc không phải từ bản chất của dân tộc ta kém cỏi, từ buổi đầu lịch sử, dân tộc ta đã có mấy trăm năm dựng nước trở thành một quốc gia có độc lập, có chủ quyền, có nền văn hóa ổn định và bền vững. Sự kém cỏi của dân tộc ta chính là do một phần chúng ta không tự lực, tự cường, không chịu học hỏi, làm mất đi cái hào khí, cái sức mạnh truyền thống mấy ngàn năm của dân tộc. Phan Châu Trinh khảo cứu lịch sử nước nhà và đi đến kết luận: “Lấy lịch sử mà nói thì dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc hèn hạ, mà cũng không phải là một dân tộc không thông minh, thế thì vì lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn 60 năm nay mà vẫn còn mê mê muội muội, bịt mắt vít tai không chịu xem xét, không chịu học hỏi lấy cái hay cái khéo của người”.

Ở đây, chúng ta thấy có sự đồng điệu của các tư tưởng lớn, Phan Bội Châu cho rằng giáo dục là “sinh mệnh của quốc dân”, Hồ Chí Minh cho rằng “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Tư tưởng chấn dân khí của Phan Châu Trinh thể hiện tính cách mạng nhằm phục hưng truyền thống hào hùng của dân tộc. Chế độ thực dân phong kiến đã làm cho dân mê muội trong sự an phận, xa lánh chính trị. Phan Châu Trinh viết: “Còn nó sợ dân biết chính trị nhiều thì nó lại sinh ra cách mạng, cho nên nó cấm học trò và dân không được nói đến chính trị”. Vì thế nhiệm vụ của cách mạng dân chủ tư sản mà Phan Châu Trinh đề xướng phải khơi dậy tinh thần dân tộc, nên ông đã viết Tỉnh quốc hồn ca I và Tỉnh quốc hồn ca II nhằm khích lệ nhân dân trong nước mau tỉnh ngộ, học tập những giá trị văn minh phương Tây để chấn hưng đất nước.

Theo như sự phát triển hợp quy luật thì, một xã hội muốn phát triển thì phải có nền kinh tế mạnh. Dường như biểu hiện quy luật ấy cho nên bên cạnh việc nâng cao dân trí Phan Châu Trinh còn đưa ra nhiều đường lối phát triển kinh tế. Trước kia công việc làm ăn, làm kinh tế không được coi trọng, người ta cho rằng ở đời “Nhất sĩ, nhì nông, công thương mạt nghệ”. Xã hội xem buôn bán, làm kinh tế là những ngành nghề thấp hèn nhất trong xã hội. Người ta trọng kẻ làm việc bằng trí óc mà khinh kẻ làm việc bằng chân tay. Người ta cho rằng người lao tâm là trị người ta mà người lao lực thì người khác trị (lao tâm dã tự nhân, lao lực dã trị ư nhân). Trước kia sĩ phu mở miệng ra là nói nhân nghĩa đạo đức chứ không nói đến quyền lợi. Quyền lợi kinh tế không được bàn bạc hoặc thường trực trong suy nghĩ của người quân tử.

Trở lại tình hình nước ta lúc bấy giờ. Dân khí đang suy nhược vì áp bức bóc lột nặng nề, phải làm cho dân khí cường thịnh lên mà cơ sở của sự cường thình đó trước hết là phải nhờ ở tăng trưởng kinh tế, phải phát triển lực lượng sản xuất. Phan Châu Trinh đã cổ vũ cho việc phát triển, công (thủ công), thương nghiệp… cổ vũ cho việc phát triển các ngành nghề truyền thống phục vụ nhân sinh và xuất khẩu. Đặc biệt, thương nghiệp cổ vũ cho việc buôn bán lớn và dùng hàng nội hóa, mở rộng thương trường trong nước, đẩy mạnh ngoại thương, nhất là lập các hội buôn. Theo lời hô hào của các sĩ phu cải cách, tại Quảng Nam trung tâm của phong trào Duy Tân-xuất hiện nhiều hiệu buôn như, Quảng Nam hiệp thương công ty do Nguyễn Quyền quản lí với cổ phần hơn 20 vạn đồng. Ở Nghệ An, Ngô Đức Kế lập ra Triệu Dương thương quán, công ty Liên Thành ở Phan Thiết chuyên kinh doanh nước mắm.

Việc thành lập những hội buôn như vậy đã gây sự chú ý đến thực dân Pháp, chúng đặc biệt theo dõi từng hành động nhỏ nhất của những hiệu buôn này và đã có những báo cáo hết sức chi tiết gửi về “nước mẹ”. Những báo cáo đó rõ ràng cho thấy một điều là thực dân Pháp không những đã can thiệp vào nước ta về mặt chính quyền mà còn can thiệp vào cả công việc làm ăn kinh tế của người dân bản xứ. Theo báo cáo chính trị của đại lý Pháp tại Tam Kì: “Tuy nhiên tôi phải báo cáo hành động của một nhóm nhà Nho đã lợi dụng danh nghĩa buôn bán để theo đuổi một mục đích còn chưa xác định rõ ràng nhưng thấy sẽ đến lúc nào đó tạo ra cho chúng ta những khó khăn lớn nếu chúng ta không chú ý đề phòng”, “Sau một thời gian hoạt động riêng rẽ, đến nay các thành viên hội đó muốn xen vào công việc nội bộ đất nước” (báo cáo số 4, ngày 31 tháng 12 năm 1906).

Tai mắt của thực dân Pháp tại Việt Nam cũng thông qua việc theo dõi, quan sát và đã đưa ra những đánh giá nhận xét tình hình những hội buôn này để gửi về Pháp: “Trước đây tôi đã báo cáo về sự thành lập một hội gọi là “hội luôn” ở Quảng Nam gồm các Nho Sĩ và các quan lại hưu trí hay đã nghỉ việc”, “Họ thu thập khá nhiều chữ kí nhưng rất ít tiền, tài sản của hội chủ yếu gồm những số tiền hứa hẹn sẽ góp. Chắc chắn những người này đang theo đuổi một mục đích chính trị”. “Vì họ thiếu vốn nên không chắc sẽ nguy hiểm lắm. Nhưng hội này được thành lập, phản ánh một tâm trạng đáng để chúng ta lo ngại trong một bộ phận dân chúng…” (Số 99 ngày 7 tháng 9 năm 1906). “Hội buôn Quảng Nam mà các thành viên thường tự xưng là “những người cắt tóc” theo cách họ nhận biết nhau. Hội này tập hợp tất cả những phần tử đối lập với ảnh hưởng của Pháp, những việc quan trọng trong đảng “Cần Vương”, “An Nam” cũ, các nhà yêu nước theo xu hướng quốc gia theo kiểu Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu. Lúc này hội ấy hoạt động ráo riết. Các thành viên đi khắp các làng đề nghị dân chúng cắt tóc ngắn, mặc Âu phục(!) và khuyên họ tự giải quyết những việc mâu thuẫn, không cần đến cửa quan hoặc các toa công xứ”… Hoạt động của hội này thực hiện nhiều nhất ở hai phủ Thăng Bình và Tam Kì và đặc biệt ở vùng giáp giới giữa hai phủ này. Chính nay là vùng Phan Châu Trinh ở. Các buổi họp công khai được tổ chức để các diễn giải dạy bọn nhà quê thật thà nhưng cách thức mới để đưa đất nước An Nam đến tiến bộ bằng con đường chắc nhắn”.(Trích báo cáo của công sứ Quảng nam Charles về phong trào Duy Tân và về Phan Bội Châu).

Muốn “chấn dân khí” còn phải nâng cao dân quyền. Phan Châu Trinh là tiêu biểu nhất cho việc đòi hỏi dân quyền ở Việt nam đầu thế kỷ XX. Hiệu quả đạt được về mặt này không phải là nhỏ. Có một cao trào đấu tranh của hàng vạn người tham gia xin xâu chống thuế, mở rộng nhân quyền, cải thiên dân sinh. Bên cạnh việc nâng cao dân quyền thì cần phải giáo dục cho quần chúng nhân dân ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ của chính họ, làm cho họ xác định được vị trí của bản thân và của dân tộc trong thời đại mới. Việc giáo dục ý thức dân quyền phải được tổ chức qua những bước như sau:

Thứ nhất, đó là người dân ý thức được mình trong tương quan với đất nước, với sự phục hưng dân tộc, ý thức được mình phải có tư cách quốc dân, phải tự lực, tự cường, tự miễn.

Thứ hai, tư tưởng dân quyền được đưa ra phải khiến cho dân ý thức được trách nhiệm của họ trong việc đứng ra gánh vác việc chung, ý thức được quyền cử ra những đại diện cho quyền lợi của mình. Người được dân bầu ra phải ý thức được mình là đại diện cho dân cho nước.

Thứ ba, người dân phải được tự do lập hội làm ăn, buôn bán dệt vải nuôi tằm trồng cây, làm ruộng và về phía nhà cầm quyền phải bỏ áp bức bóc lột bất công, bỏ sưu cao thuế nặng.

Thứ tư, Phan Châu Trinh đã đưa đến cho nhân dân ý thức về quyền dân được mở mang trí tuệ như tự do học tập, tự do đọc sách báo tiến bộ, xóa bỏ tập quán, phong tục lạc hậu, xây dựng lối sống văn hóa, văn minh.

Thứ năm, ông đưa ra hình mẫu người dân thời đại mới (Tân dân). Đó là những người dám từ bỏ nhân sinh quan lạc hậu, có ý thức và biết cách thực hiện quyền được học tập, suy nghĩ, mưu sinh và muốn vậy trước hết dân phải được giáo dục, nâng cao “dân trí”, từ đó “chấn dân khí” và “hậu dân sinh”. Nội dung dân quyền dân chủ mới mới chỉ đặt ra ở mức đó. Những vấn đề về thể chế chính trị, chủ quyền còn chưa được đặt ra. Sở dĩ như vậy là do lúc đó thực dân Pháp đã thống trị hoàn toàn đất nước, chưa thể có điều kiện để đặt vấn đề đấu tranh quyết liệt để giành lại chính quyền theo kiểu cách mạng tư sản. Các nước láng giềng chúng ta như Philipin, Inđônêxia, Trung Quốc, Triều Tiên… cũng có hiện tượng chủ trương đấu tranh bằng con đường cải cách ôn hòa, công khai hợp pháp như vậy. Ở các nước này cũng có hiện tượng thiếu một giai cấp tư sản lớn mạnh để đảm nhận sứ mạng phát triển chủ nghĩa tư bản ở nước họ. Lúc này về cơ bản đó là những nước Phương Đông có chế độ chuyên chế. Từ trước tới nay với sức ỳ của nó, việc đặt ra chính thể kiểu Phương Tây chưa thể nào thực hiện được.

Từ nội dung đến hình thức, phong trào nhân quyền và dân quyền thể hiện rõ ảnh hưởng của cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ. Có thể nói Phan Châu Trinh và các sĩ phu tiến bộ đã châm ngòi cho phong trào. Nhưng khi phong trào đã đi vào quần chúng nông dân đang phải chịu cảnh lầm than, cơ cực dưới chế độ thực dân phong kiến thì phong trào quần chúng vượt qua những hạn chế các sĩ phu. Công cuộc đấu tranh đã gây được tiếng vang quốc tế, có ảnh hưởng sâu rộng, góp phần tác động tới những người có tinh thần tiến bộ vì quyền con người trên thế giới. Chính Phan Chu  Trinh thoát nạn tử hình cũng nhờ hội nhân quyền Pháp đấu tranh để giải thoát.

Hai yêu cầu trên tất yếu khách quan sẽ dẫn tới yêu cầu thứ ba là hậu dân sinh, đó chính là cải thiện đời sống cho nhân dân, nâng cao toàn diện cuộc sống vật chất và tinh thần cũng như về các mặt khác như kinh tế, văn hóa, xã hội ở hiện tại cũng như cho những thế hệ sau này. Muốn làm được điều đó trước hết phải xóa sạch mọi tàn dư, chướng ngại của chế độ phong kiến, từng bước một cố gắng dành cho được độc lập dân tộc, xây dựng được một nhà nước tư sản dân chủ vững mạnh, một xã hội công bằng, phồn vinh, thực hiện bình đẳng xã hội, đất nước phải có pháp luật kỉ cương… Và muốn làm được như vậy thì phải làm cho dân đổi mới từ trong dân. Bằng các hình thức tuyên truyền cổ động bài bác “hủ Nho” vốn đã ăn sâu vào tiềm thức dân ta, những lễ giáo đạo đức phong kiến dùng để cũng cố địa vị của mình. Họ đã gầy dựng vào phẩm chất của mỗi người lòng trung thành tuyệt đối, nhưng trung thành ở đây là trung thành với vua, trung thành với vương triều hiện hành chứ không phải trung thành với tổ quốc, với đất nước con người mình. Làm cho dân thoát khỏi tư tưởng “ngu trung” thật không phải dễ. Bên cạnh đó cần phải thực hiện các phong tục “thái Tây”, dùng chữ quốc ngữ tuyên truyền cổ động yêu nước nghĩa đồng bào và các tiêu chuẩn đạo đức (mà thực chất là tư sản) của người công dân. Một mặt làm cho dân nhận rõ những “hủ tục” của Nho giáo. Mặt khác, làm cho dân hiểu được xu thế của thời đại, làm cho dân hiểu được Việt Nam cũng vốn là một nước văn minh, ở vào một vị trí địa lí thuận lợi, giàu tài nguyên. Thế mà, nhân dân Việt Nam không được hưởng các tài nguyên ấy, đất nước thì: “vẫn như cũ”, trong khi các nước khác thì đã văn minh. Ở Việt Nam lúc này, còn có người hoặc là “để trí khôn vào cho vô dụng”, như ham mê đàn sáo, cờ bạc bói toán … hoặc là chỉ lo gọt giũa văn chương, “khư khư ngồi giữ những thuế thu lậu”, hoặc là luồn cuối dưới công danh “tự mình lại củng cố một căn tính nô lệ”. Đặc biệt dân Việt Nam cần phải xóa bỏ những tư tưởng: một là, “nội hạ ngoại di” không thèm hỏi đến chính thuật và kỹ năng của nước khác. Hai là, cần phải xóa bỏ tư tưởng quý đạo vương. Ba là, cần xóa bỏ quan điểm cho là xưa là phải, nay là quấy. Bốn là, xóa bỏ quan niệm trọng quan khinh dân, không thèm để ý đến tình hình hay dỡ chốn lương thôn.

Cũng như mọi thức giả đương thời, Phan Châu Trinh cho rằng “ai nắm việc thương mại thì nắm được thế giới”(Qui tient le commerce tienl le monde), do đó ông chủ trương phát triển kinh doanh, lập các hiệu buôn, mở mang thương nghiệp, dạy cho dân có nghề nghiệp sinh nhai, lập các hội khai hoang, mở mang đồn điền cho hết địa lợi. Nếu mối lợi làm không đủ sức thì xin chính phủ trợ cấp. Ông đặc biệt lên án bọn tham quan ô lại, gọi chúng là những bọn “ăn cướp có giấy phép”, đối với những người có đầu óc thực nghiệp thì ông lại đề cao. Ông cho rằng, ở trên đời ai muốn phú quý phong lưu không tủi với lương tâm thì chỉ ra đi buôn bán, làm ruộng sinh nhai là được sang trọng và được nhiều lời mà không phạm đến tội ăn tiền hối lộ của quốc dân. Trong nhiều bài nói chuyện, ông căn dặn mọi người: “nếu muốn làm giàu cho được vẻ vang thì chỉ làm ông chủ hiệu, ông chủ đồn điền là ai trông thấy cũng có cảm tình, trong dạ người ta ai cũng yên trí rằng là người này đã làm ăn khó nhọc, đổi bát máu mà lấy được bát cơm đây. Chứ làm quan làm lại dẫu cho ngực mề đay, thân áo gấm, đường bệ oai phong gặp ai không những người ta cho mình là quân mọt dân, quân ăn cướp, chẳng thế sao lương chú ít ỏi mà chú giàu sang? rồi tự mình cũng bẽn lẽn với người ta”.

Theo Phan Châu Trinh, một dân tộc muốn phát triển kinh tế phải tiến hành phát triển ngành nghề nhằm tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ đời sống xã hội. Đặc biệt, trong quá trình giao lưu với văn minh phương Tây, cũng như khi đọc những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Phan Châu Trinh rất tâm đắc đề nghị của Nguyễn Trường Tộ với nhà vua là cần phải nhanh chóng cho người sang phương Tây học nghề. Trong bài diễn thuyết tại Sài Gòn (1925) có đoạn ông nói: “Cũng có người học hành như Nguyễn Trường Tộ xem vua dạo qua bên Tây xem xét cái văn minh của họ, rồi cho người qua học…”. Cho nên, khi sự giao lưu với các phong trào văn minh phương Tây phát triển, có cơ hội học tập, ông kêu gọi mọi người tích cực tham gia, phục vụ cho phát triển đất nước. Ông viết:

“Mau mau đi học lấy nghề,

Học rồi, ta sẽ đem về dạy nhau”

Việc mở mang ngành nghề với mục đích phát triển kinh tế là một trong những nội dung Phan Châu Trinh rất quan tâm. Tính chất nền kinh tế mà Phan Châu Trinh quan niệm không phải là kinh tế tự cung, tự cấp mà là nền kinh tế hàng hóa. Nền sản xuất ấy phải giao lưu với nước ngoài, phải đảm bảo nhiều hàng hóa phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu để tạo ra sự tích lũy cho nền kinh tế. Ông viết:

“Nghề càng ngày càng đua càng tới,

Vật càng ngày càng mới dễ coi.

Chở chuyên đi bán nước người,

Lợi trong đã được, lợi ngoài lại thêm.

Được nhiều lời càng thêm tư bổn,

Rộng bán buôn khắp bốn phương trời”

Phan Châu Trinh đã nhận thức được vai trò của việc phát triển nghề nghiệp cho phát triển kinh tế xã hội nói chung. Ông đặt ra chương trình tự lập các hội trồng cây, dệt vải, hội buôn, các cơ sở sản xuất hàng hóa, buôn bán hàng nội trú nhằm phục vụ và chấn hưng nền sản xuất của đất nước. Đây có thể nói là một phát hiện mới góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực trong xã hội. Theo ông, muốn phát triển kinh tế đất nước phải chú trọng đẩy mạnh phát triển các ngành công thương, đồng thời cải tạo nông nghiệp, khai khẩn đất đai đưa vào sản xuất nông nghiệp, mở rộng giao lưu kinh tế với các nước láng giềng. Bản thân Phan Châu Trinh cũng rất chú trọng trong hoạt động thực tiễn trong phong trào sản xuất, phát triển nghề nghiệp, ông là người đã trực tiếp tự học nghề làm đồi mồi khi bị đày ở Côn Đảo (1908-1910), tự học làm nghề rửa ảnh khi ở Pari… Như vậy, ở Phan Châu Trinh tư tưởng và hành động có sự thống nhất, đó là sự coi trọng phát triển nghề nghiệp. Ông đã nhận thấy được sức mạnh phục hưng độc lập dân tộc là phụ thuộc vào sức mạnh chấn hưng nghề nghiệp, nâng cao tiềm lực kinh tế, tài chính của đất nước. Bên cạnh đó, Phan Châu Trinh còn kêu gọi mọi người phải thay đổi các phong tục, lối sống sinh hoạt cho phù hợp với lối sống mới, từ đó đã tạo ra sự đổi thay trong lề lối, nếp sống của xã hội ta lúc bấy giờ. Như vậy, ông đã vượt lên, phá bỏ những khuôn mẫu của đời sống cũ, lạc hậu, chuẩn bị mở đường cho lối sống mới tiến bộ hơn. Do đó, tư tưởng và những hoạt động của Phan Châu Trinh có ý nghĩa phê phán lề thói, tập tục cổ hủ, đi đến xác lập một phong cách mới mang màu sắc của văn minh, tiến bộ và nhân đạo.

Qua quan điểm của Phan Châu Trinh, chúng ta thấy, ông là người có tầm nhìn mang tính chất hiện đại, các nhà tư tưởng canh tân, kể cả cụ Phan Bội Châu chỉ nhìn sự phát triển kinh tế đất nước một cách chung chung với mục đích nâng cao đời sống nhân dân. Còn Phan Châu Trinh quan niệm kinh tế nước nhà phải là nền kinh tế hàng hóa. Bên cạnh đó, để phát triển, nâng cao đời sống nhân dân, ông đề cập hàng loạt vấn đề như phải đoàn kết, lập hội buôn bán, học nghề, xây dựng lối sống giản dị, lành mạnh, chống mê tín, dị đoan, cải tiến kỹ thuật, tổ chức y tế, giáo dục… phục vụ đời sống nhân dân.

2.3. Đặc điểm của tư tưởng Dân chủ của Phan Châu Trinh

Lịch sử Việt Nam, giai đoạn cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một giai đoạn đặc biệt, đó là giai đoạn chuyển đổi từ xã hội này sang xã hội khác, nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, biến một nước phong kiến thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Việc tìm hiểu, nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ cơ bản của Phan Châu Trinh trong giai đoạn này, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị từ tư tưởng quân chủ sang dân chủ tư sản của Phan Châu Trinh không phải là quá trình chuyển biến giản đơn mà là một quá trình tiệm tiến dần dần, khó khăn, trăn trở và phức tạp.

Sự chuyển biến tư tưởng chính trị của Phan Châu Trinh diễn ra trong điều kiện nước ta là chế độ phong kiến đã tồn tại mấy trăm năm, chỉ có các cuộc đổi mới, cải cách trong phạm vi của chế độ phong kiến chứ chưa hề có sự khai phá con đường cách mạng mới. Những cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở bên ngoài xuất hiện, nhưng nó chỉ tác động trực tiếp ở các nước thực hiện cuộc cách mạng chứ không phải là cuộc cách mạng với tư cách phong trào tổ chức qui mô thế giới. Trong quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị của mình, Phan Châu Trinh còn chịu sự chi phối của hệ tư tưởng phong kiến, của quan điểm giai cấp và trình độ nhận thức còn hạn chế. Giai đoạn cuối thế kỷ XIX, nước ta chuyển sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến là do tác động của thực dân xâm lược chứ không phải do bên trong xã hội có nhu cầu phát triển. Chính sự chuyển biến nhanh chóng về xã hội đã làm cho Phan Châu Trinh phải trải qua thời kỳ mày mò, suy tư, trăn trở, một quá trình lâu dài để chuyển biến tư tưởng. Do vậy, quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị của Phan Châu Trinh thể hiện sự tìm tòi, khám phá, đồng thời đó cũng chính là sự bứt phá rất mới trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Thứ hai, nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh hướng đến vấn đề quan trọng là tự cường dân tộc, nâng cao dân trí, bồi dưỡng sức dân, truyền bá tư tưởng dân chủ và dân quyền.

Là người đã đặt nền móng cho tư tưởng dân chủ tư sản ở nước ta. Ông cũng là người đã áp dụng tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây vào Việt Nam một cách linh hoạt và sáng tạo, phù họp với tình hình thực tế của đất nước. Tư tưởng dân chủ của ông so với Phan Bội Châu có sự phát triển cao hơn về trình độ, tính chất. Phạm trù dân chủ tư sản không chỉ dừng lại ở phạm trù chung chung, trừu tượng đem đối lập với quân chủ truyền thống mà mang tính phổ biến, gắn liền với những lợi ích thiết thân của con người và của xã hội. Có thể nói rằng, những chủ trương thực hiện quyền dân sinh, dân chủ mà Phan Châu Trinh đề xướng xét về mặt thực tế là rất phù hợp với tình hình chung của đất nước lúc bấy giờ. Có thể nhìn ở khía cạnh cách mạng đánh đổ thực dân phong kiến thì tư tưởng của Phan Châu Trinh như là “cải lương”, nhưng nếu chúng ta nhìn nhận ở trong bối cảnh ấy, thì cách mạng Việt Nam chưa hội tụ đủ những yếu tố căn bản về sức mạnh vật chất để tiến hành cuộc cách mạng bằng bạo lực để giải phóng dân tộc. Vì vậy, dưới nhãn quan chính trị sắc bén, sát thời cuộc của mình đã dẫn Phan Châu Trinh đi đến những quyết sách phù hợp với thực tế hơn là làm cho dân có cái ăn, cái mặc. Theo tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản của Phan Châu Trinh, vấn đề quan trọng nhất lúc bấy giờ là thực hiện mục đích làm cho dân có cuộc sống với các quyền cơ bản của con người. Để thực hiện được mục đích đó, theo ông, trước hết cuộc cách mạng dân chủ tư sản phải tuyên truyền cho nhân dân hiểu được quyền công dân của mình, đấu tranh công khai, hợp pháp đòi thực dân Pháp phải thực hiện đảm bảo quyền lợi của nhân dân.Mặc dù còn có nhiều hạn chế về mặt lịch sử, nhưng điều quan trọng là Phan Châu Trinh đã đề xuất được những tư tưởng mang tính chất phát hiện mới, có ý nghĩa chiến lược, thiết thực với dân tộc.

Thứ ba, trong nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh còn có sự tiếp thu những giá trị của văn hóa nhân loại. Theo quan điểm của Phan Châu Trinh, muốn phát triển đất nước, dân tộc ta phải tiếp thu những giá trị văn hóa phương Tây và văn hóa phương Đông, kết hợp hài hòa truyền thống và hiện đại, đặc biệt là về tư tưởng dân chủ, về chính trị, về phát triển ngành nghề, về khoa học kỹ thuật…. Phan Châu Trinh đã triển khai tư tưởng dân chủ trong thực tế, cổ vũ, động viên mở mang nhiều ngành nghề, xây dựng nhiều hội nghề, buôn bán nhằm phát triển đời sống dân sinh. Đây là những tư tưởng mới, xóa bỏ những quan niệm cũ của xã hội phong kiến, và từ tư tưởng triển khai ra hiện thực một cách sáng tạo và thiết thực, phù hợp với yêu cầu của lịch sử dân tộc và thời đại.

Thứ tư, trong tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh đã xuất hiện quan điểm pháp quyền. Phan Châu Trinh cho rằng, phải xây dựng một xã hội quản lý bằng pháp luật. Phải dựa vào pháp luật để tiến hành mọi hoạt động đấu tranh cách mạng. Bản thân Phan Châu Trinh đã nhận thấy vai trò tích cực của quản lý xã hội bằng pháp luật, chống lại tư tưởng chuyên quyền, độc quyền chính trị. Có thể nói rằng, những quan điểm pháp quyền đã đánh dấu một bước chuyển từ tư duy chính trị truyền thống sang tư duy chính trị hiện đại, từ vương quyền sang pháp quyền, từ quân chủ sang dân chủ của nước ta trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Thứ năm, tìm hiểu về nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh, chúng ta nhận thấy rằng, mặc dù có những nội dung mới, cách mạng và tiến bộ thể hiện tinh thần yêu nước nhiệt tình, tinh thần căm thù giặc cao độ. Nhưng, trong chừng mực, hoàn cảnh, điều kiện nhất định vẫn còn thể hiện tư tưởng dao động, mơ hồ về chính trị, thậm chí có lúc đi đến thỏa hiệp với thực dân (tư tưởng “ỷ Pháp” để thực hiện dân chủ của Phan Châu Trinh) Đây cũng là một trong những hạn chế lớn nhất của các nhà tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nói chung, trong đó có Phan Châu Trinh nói riêng. Tuy nhiên, những chủ trương đó của Phan Châu Trinh cũng chỉ mang tính nhất thời, nhưng nó cũng gây ra những ảnh hưởng không tốt đến tinh thần cách mạng của dân tộc. Nguyên nhân của những sai lầm này chính là chưa có một lý luận khoa học soi đường, nên chưa nhận thức đầy đủ bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Mặt khác, trong những điều kiện khó khăn của cách mạng, thực dân Pháp có những hành động đàn áp dã man, cũng như sự đe dọa của các thế lực thực dân khác, nên việc tạm thời “cộng tác” với thực dân cũng chỉ là một “kế hoãn binh”, một thủ đoạn chính trị mang tính “động”, linh hoạt và mềm dẻo của Phan Châu Trinh mà thôi.

2.4. Ý nghĩa lịch sử của tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh

Có thể nói rằng, lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một giai đoạn có nhiều biến động. Giai đoạn lịch sử này, đất nước ta rơi vào cảnh áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến. Phan Châu Trinh đã nhận ra được mục đích tối cao của cách mạng Việt Nam là: khôi phục độc lập dân tộc, khôi phục lại chủ quyền đất nước. Nhằm đạt được mục đích này, trước hết và cơ bản là thức tỉnh dân tộc ta ra khỏi sự mê muội của nọc độc chuyên chế của thực dân, phong kiến.Theo ông, muốn đánh đuổi thực dân Pháp, trước hết phải nâng cao dân trí, nâng cao sức dân và phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Cho nên, Phan Châu Trinh đã đưa ra chủ trương: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Đối lập với chủ trương của thực dân Pháp là “khai hoá văn minh” cho An Nam, ông cho rằng dân tộc ta có khả năng “tự lực khai hoá”. Thực chất thì thực dân Pháp đang ra sức để bóc lột và vơ vét của cải của nhân dân ta, chúng đang thực hiện các cuộc khai thác thuộc địa và tiếp tục sử dụng chính sách ngu dân để trị của chế độ phong kiến.

Quan điểm của Phan Châu Trinh đã đánh thức cơn ngủ mê của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Trước hết, ông phê phán Nho học ở bình diện hệ tư tưởng và lối khoa cử lạc hậu. Với trí tuệ thông minh, nhạy cảm với sự biến đổi của thời cuộc ông đã nhận thức được Nho giáo đã hết vai trò lịch sử, trở thành lực cản cho sự tồn vong và phát triển của dân tộc, nó không còn là hệ tư tưởng phù hợp với sự phát triển của thời đại bấy giờ.

Phan Châu Trinh đã cống hiến trọn đời mình cho việc truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam và cuối đời đã gửi gắm hy vọng vào một thế hệ trẻ nối tiếp sẽ đưa tư tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa đến cho dân tộc Việt Nam. Phan Châu Trinh là chí sĩ yêu nước, nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông đã có những đóng góp nổi bật trong việc đem nội dung tư tưởng dân quyền kết hợp vào các chương trình canh tân đất nước, đạt được những thành quả nhất định trong phong trào Duy tân. Nhưng ông là một nhà nho nên ngay trong lập luận, suy nghĩ của ông vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng cái nhìn nhà nho nặng phần đạo lý mà nhẹ phần kiến thức lý luận, phương pháp tổ chức. Phan Châu Trinh cho rằng, chỗ dựa lớn nhất của ông là các nguyên lý công bằng – công lý – tự do – bình đẳng – dân chủ của phương Tây, đó là các nguyên lý thiêng liêng mà phương Tây phải thực hiện cho các nước thuộc địa. Ông nhận thấy mình phải có bổn phận giải thích về sự gắn bó giữa quyền lợi của chính phủ Pháp với quyền lợi của nhân dân Việt Nam, hy vọng nhà cầm quyền nhận thức ra lẽ phải đó mà thay đổi cải cách chính trị cho nhân dân Việt Nam.

Phan Châu Trinh chủ trương dựa vào sự thức tỉnh nhân dân để thực hiện những chương trình đổi mới đất nước theo hướng dân chủ tư sản, chứ không ỷ lại ở một thế lực bên ngoài nào. Ông chủ trương “bất vọng ngoại”, nhưng ông chưa nhận thức được toàn diện với điều kiện nước ta lúc đó phải tranh thủ mọi sự đồng tình giúp đỡ bên ngoài để hỗ trợ cho phong trào cách mạng trong nước tiến lên. Và một trong những đóng góp cho tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là nội dung tố cáo chế độ vua quan bù nhìn phản dân hại nước, yêu cầu chính phủ Pháp phải cải cách thế chế này.

Giai đoạn hiện nay, đất nước Việt Nam không những cần có độc lập dân tộc, mà phải giàu mạnh, có dân chủ và văn minh. Chính yêu cầu đó của lịch sử đã khẳng định vai trò quan trọng của phong trào duy tân đổi mới và cải cách. Phan Châu Trinh là người phát biểu một cách dõng dạc và rõ ràng nhất những sự hủ bại của hệ thống quan lại và đưa ra những yêu cầu cải cách hệ thống quan lại và những quan hệ chính trị lúc đương thời. Không những thế, ông còn làm sáng tỏ vấn đề dân quyền về mặt lý thuyết và ra sức cổ vũ tuyên truyền cho sự thực hiện dân chủ và dân quyền trong thực tiễn. Những nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là một đóng góp to lớn không những cho phong trào đổi mới và cải cách mà cả cho sự phát triển của lịch sử tư tưởng Việt nam đầu thế kỷ XX.

3. KẾT LUẬN

Tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất phát từ các tiền đề đó là: hoàn cảnh lịch sử thế giới đã có sự tác động và ảnh hưởng đến Việt Nam, những điều kiện kinh tế-xã hội và những tiền đề lý luận, trong đó, điều kiện về kinh tế-xã hội Việt Nam giữ vị trí quan trọng nhất. Có thể nói rằng, tư tưởng giai đoạn này phản ánh rất đa dạng và phong phú, tuy nhiên các trào lưu dù trực tiếp hay gian tiếp đều tập trung xoay quanh một trục chính là chủ nghĩa yêu nước, mục tiêu cao cả nhất mà các nhà yêu nước hướng đến là độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, các nhà tư tưởng đã thực hiện quá trình chuyển tiếp tư tưởng, dù đó là một quá trình hết sức khó khăn từng bước gắn kết chủ nghĩa yêu nước truyền thống với các giá trị dân chủ, nhân văn từ phương Tây, hay hướng đi mới cứu nước cứu dân. Sự nhận thức này tạo nên quá trình chuyển tiếp tư tưởng, đưa đến các phong trào yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học, … của những trí thức “Tây học” như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, của các tổ chức xã hội như Đông Kinh nghĩa thục, Công hội đỏ, trước khi có Đảng Cộng sản ra đời. Đó chính là tính đa dạng hướng đến mục tiêu thống nhất của phong trào yêu nước Việt Nam.

Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh để lại dấu ấn sâu sắc nhất trong lịch sử tư tưởng Việt Nam chính là thức tỉnh dân tộc ta nhận thức vấn đề dân quyền, dân chủ, với phương pháp đấu tranh hòa bình, công khai, dựa trên nền dân chủ của nước Pháp. Nhìn chung, tư tưởng của Phan Châu Trinh nói riêng và của các nhà tư tưởng khác nói chung trong giai đoạn này đã sơ thảo những vấn đề rất cơ bản cho cách mạng Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những năm đầu của thế kỷ XX. Đó là việc đề ra nhiệm vụ cách mạng, vấn đề dân quyền, dân chủ, dân sinh, vai trò của nhân dân trong phong trào cách mạng… Hạn chế lớn nhất trong tư tưởng của Phan Châu Trinh chính là vẫn bế tắc về con đường cách mạng, chưa nhận thức đầy đủ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chưa phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, mặc dù các ông đã ít nhiều đề cập đến vai trò cách mạng của giai cấp công nhân.

Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng rõ ràng tư tưởng và hoạt động của Phan Châu Trinh đã góp phần quan trọng tạo nên bước chuyển trong tư duy của dân tộc Việt Nam, đó là làm cuộc vận động từng bước về tư tưởng từ chế độ quân chủ sang chế độ dân chủ, từ tư duy phong kiến sang tư duy thời cận-hiện đại. Tư tưởng dân chủ tư sản mặc dầu không chứng tỏ được sức sống của mình nhưng nó là khâu trung gian, là bước chuyển rất quan trọng. Bởi vì hệ tư tưởng tư sản đã bị thời đại vượt qua và cũng không còn đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh về hai phương diện thành công và thất bại, ưu điểm và nhược điểm, … đã để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học qúi giá trong tiến trình cách mạng.

Phan Châu Trinh là một nhà trí thức có lý giải thực tiễn một cách độc lập, ông nhận thức và khẳng định con đường hành động nhận thức, lý giải để biện luận cho hành động. Chính vì vậy, chỗ đứng, lịch sử và thời đại đã định vị tư tưởng và hành động của ông. Những nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là ngọn đèn soi sáng, là sự thức tỉnh cho dân tộc ta bước ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế hàng ngàn năm. Nó có một vị trí xứng đáng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, đặc biệt trong những năm đầu của thế kỷ XX.

Thạc sĩ Trần Mai Ước - Phó trưởng khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM